Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

LỄ PHẬT VÀ Y HỌC

Niệm Phật một câu, phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy, tội diệt hà sa

LỄ PHẬT VÀ Y HỌC
P/S. ĐẠO CHỨNG - B/S. QUÁCH HUỆ TRÂN

Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn nghĩ lễ Phật chỉ là một hành động bày tỏ lòng cung kính cũng như để sám hối Nghiệp Chướng, điều phục tâm Ngã Mạn của chính mình mà thôi, chứ chẳng hề biết lễ Phật còn là một phương pháp tập luyện thân thể tuyệt diệu.  

Trong một lần được tiếp chuyện Cô Cát Tường, Cô có nhắc đến tác phẩm Lễ Phật Dữ Y Học (Lễ Phật và Y Học) của P/S. Ðạo Chứng do Tịnh Tông Học Hội ấn hành và tha thiết yêu cầu chúng tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt.  Trước khi đọc tập sách này, chúng tôi thường lễ Phật theo thói quen, lễ một cách máy móc, lễ cho đủ số.  Lễ xong ai nấy thường thở phì phò, mồ hôi nhễ nhại, chứ chưa bao giờ được hưởng Pháp Vị vi diệu trong khi lễ Phật cả.  Thử thực hành theo cách lễ Phật do Pháp Sư từ bi chỉ dạy, dù chưa nắm hoàn toàn được yếu quyết lễ Phật, chúng tôi đã nhận thấy việc lễ Phật trở nên nhẹ nhàng, thoải mái hơn.  Cứ mỗi lần quỳ xuống, cúi thân rạp lạy, lại quán tưởng Ðức Phật đoan nghiêm vi diệu, nghiễm nhiên đứng trên hai bàn tay sen của mình, lòng chúng tôi lại thấy lâng lâng khôn tả. Trước đây, mỗi lần lạy Phật sám hối, lễ xong 108 lễ là mệt nhoài; nay lễ đủ 108 lễ chỉ thấy hơi mệt, tâm tình cũng thoải mái, ý cũng chuyên chú hơn.  Chúng tôi tin chắc rằng nếu tập luyện lâu ngày theo đúng cách Pháp Sư dạy, chắc chắn việc lễ Phật sẽ trở thành một niềm Pháp Hỷ sung mãn vô biên đúng như các đệ tử của Pháp Sư đã trần thuật.

Do tập sách khá dày, đã thế 2/3 cuốn sách lại luận giải nhiều về cơ sở sinh lý/vật lý của phương pháp này, nếu dịch đủ cả, bản dịch sẽ trở nên quá dài, trở thành một cuốn sách giáo khoa về sinh vật học, khiến điểm cốt yếu của tập sách này là cách lễ Phật đúng quy cách bị mờ nhạt đi.  Vì thế, chúng tôi chỉ chọn dịch phần khái luận, phương pháp lễ Phật và một hai luận điểm Pháp Sư dùng để chứng minh tính cách khoa học và hợp lý của phương pháp lễ Phật này.  Tưởng cũng nên nói thêm, trước khi xuất gia, P/S. Ðạo Chứng từng là một vị nữ Bác Sĩ, khuê danh là Quách Huệ Trân.  Sau khi bị ác chứng ung thư, nhờ chí tâm tin tưởng vào Tam Bảo và lễ sám, B/S. Quách đã vượt qua được những di chứng ngặt nghèo của căn bệnh.  Với lòng tin nhiệt thành vào Tam Bảo, nhất là Pháp Môn Tịnh Ðộ, bà đã xuất gia và trở thành một vị Pháp Sư hữu danh của Phật Giáo Trung Hoa.  Khi nghiên cứu cách lạy Phật này, Ngài đã chú tâm diễn giải và hoàn thiện nó trên cơ sở y học và vật lý học.  Vì thế, có thể nói không sợ phóng đại rằng cách lạy Phật này rất hợp lý và rất khoa học.  Ngưỡng mong những vị đồng tu có duyên đọc đến tác phẩm này sẽ tìm được niềm vui Pháp Hỷ sung mãn trong việc lễ Phật, cũng như càng lễ sám, tu niệm, càng thấy thân tâm khang kiện hơn. 


LỄ PHẬT LÀ MỘT HÀNH ÐỘNG RÈN LUYỆN TỰ GIÁC, LÀ SỰ HƯỞNG THỤ TỐI CAO


Có người cứ nghe nói đến việc lễ Phật bèn bài xích là hành động mê tín, chứ thật ra đối với ý nghĩa của chữ Phật và đạo lý “lễ bái” hoàn toàn chẳng hiểu gì nên mới ngộ nhận như thế.  Lễ Phật nào phải là sùng bái, van vái thần minh bên ngoài một cách mù quáng, mà chính là một hành vi hợp lý, đúng đắn, có tiềm năng thâm nhập, khai phát tự tánh nội tại.  Lễ bái chẳng những giúp cho thân, tâm khang kiện, mà còn có thể giúp ta huấn luyện Năng Lực Giác Chiếu cao cấp.  Nếu bàn đến tác dụng “khiến tâm vui vẻ, sảng khoái, an định” thì lễ bái cũng là cách hưởng thụ Pháp Lạc cao quý.  Nếu đã có thể tin tưởng vào lời giải thích căn bản trên thì không ai lại chẳng tán thành, đề cao hoạt động thân, tâm, tinh thần ưu tú này.

Có nhiều phương thức biểu đạt sự lễ kính sai khác.  Do mỗi quốc gia có một nền văn hóa sai khác nên phương thức biểu đạt lễ kính cũng phải sai khác.  Chẳng hạn như: nước thì chắp tay, nước thì khom mình, có nước cúi đầu để biểu đạt ý lễ kính.  Tại Tây Tạng thường dùng phương thức Đại Lễ Bái để lễ Phật.  Thậm chí ngay nơi lúc trời Ðông tuyết đọng, họ vẫn kiền thành rạp lạy toàn thân, nằm mọp xuống đất, hai tay hướng thẳng về trước, ép sát xuống đất.

CÓ NHIỀU CÁCH LỄ NGŨ THỂ ÐẦU ÐỊA KHÁC NHAU, NHƯNG MỖI CÁCH ÐỀU CÓ Ý NGHĨA SÂU XA

Trong các đạo tràng, chùa miếu của ta, phần nhiều dùng cách “Ngũ Thể Đầu Địa” để lễ Phật, nhưng có nhiều cách thực hiện khác nhau:
  1. TRƯỚC PHẢI SAU TRÁI: Tại Ấn Ðộ dùng phía phải tượng trưng cho Chánh Ðạo nên quỳ gối phải trước, theo thứ tự: tay phải rồi tay trái chạm đất, biểu ý: tôn trọng Chánh Pháp, nguyện cho chúng sanh đắc Giác Chánh Ðạo.  Cách lạy: Ðứng ngay thẳng, chắp tay ngang trán (cánh tay hơi chạm theo mép áo).  Trước hết là gối phải rồi đến gối trái, hai khủy tay lần lượt theo thứ tự chạm đất, rồi xòe hai tay ra, lòng bàn tay ngửa lên.  Quán tưởng như đang chạm vào chân đối phương, dùng trán dập xuống đất một lạy.
  2. PHẢI TRÁI CÙNG LÚC: Hai tay đối xứng đồng thời chạm đất, hai gối cũng đồng thời chạm đất.  Cách lạy này dùng tả, hữu tượng trưng cho Chỉ - Quán, Ðịnh - Huệ, Quyền - Thật, Từ - Bi nên dùng trái phải cùng lúc, biểu thị các ý nghĩa: “Ðịnh Huệ Ðẳng Trì” (cùng bình đẳng gìn giữ Ðịnh lẫn Huệ), “Từ Bi Song Vận” (cùng vận dụng Từ và Bi), “Chỉ Quán Song Vận”... Do hai cách lạy này, cách nào cũng có đạo lý, ý nghĩa sâu xa, chúng ta đều phải bình đẳng học tập, thâm nhập thể hội.  
TINH THẦN, THÁI ÐỘ ÐÚNG ÐẮN TRONG VIỆC HỌC TẬP CÁCH LỄ PHẬT

Do những điều vừa nói trên, ta biết lễ Phật có nhiều cách khác nhau, trong mỗi đạo tràng lại quen dùng những cách thức lễ Phật khác nhau.  Mỗi cách thức đều có điểm đặc sắc, ý nghĩa và ưu điểm khác nhau.  Ðến mỗi nơi chúng ta phải đặc biệt lưu tâm.  Ðến trong đạo tràng nào để tham gia đoàn thể cộng tu, chúng ta đều phải tôn trọng sự chỉ dạy của người lãnh đạo, và cũng phải tôn trọng phương tiện và cách sắp đặt trật tự đoàn thể của họ, cần phải làm đúng theo nghi thức được sử dụng bởi đạo tràng ấy.  Bởi lẽ tôn trọng người khác cũng là biểu hiện sự lễ kính Chư Phật, là thực tiễn để hòa thuận với chúng sanh.  Chúng ta phải bắt chước như hang núi trống rỗng hòng hấp thâu những điều sở trường của người khác thì mới có thể tự mình cải tiến không ngừng, sửa mình ngay thẳng.  Như vậy mới là tu hành, mới là lễ Phật, mới là tinh thần học Phật khiêm kính, mới là thái độ đúng đắn.  Những phương pháp lễ Phật chúng tôi giới thiệu ở đây chỉ là nhằm kính trình mọi người tham khảo mà thôi.

ÐỪNG KHỞI NHỮNG TÂM THÁI SAI TRÁI KHIẾN CHÍNH MÌNH BỊ CHƯỚNG NGẠI
Ngàn vạn phần chúng ta chớ vì người khác dùng cách thức lễ bái khác với cách mình đã học trước đây hoặc khác với tư thế mình quen dùng mà nảy sinh tâm lý kháng cự, chẳng chấp nhận, tự sanh lòng phiền não (chẳng những chỉ đối với việc lễ Phật như vậy mà đối với những điều khác cũng đều nên như vậy), hoặc lãng phí tinh thần vào những hoài nghi, không cách nào thâm nhập, lãnh hội những điểm hay của họ.  Chớ vì một động tác nào ta không học được mà ngã lòng, chán nản.  Hoặc vì gân cốt thiếu vận động, trở thành cứng cỏi chẳng thể thực hiện ngay được động tác ấy bèn chán nản.  Thậm chí phê bình mù quáng, sanh tâm khinh mạn thì là hoàn toàn chẳng phù hợp với nội dung của tinh thần lễ Phật, mà cũng là trái nghịch với mục đích của việc lễ Phật là khai phát Phật tánh, mỹ đức nơi tự tâm.

ÐIỀU PHỤC THÂN TÂM, KHIÊM KÍNH, NHU NHUYỄN
Học tập lễ Phật thì điều đầu tiên là phải hàng phục thái độ kiêu căng, lười nhác, ngạo mạn của chính mình, điều hòa, làm dịu đi sự ngoan cố, bướng bỉnh, khẩn trương nơi thân tâm mình.  Hễ tâm đã khoan hòa, rỗng rang, từ bi, dịu dàng thì thân cũng tự nhiên thong dong, đoan chánh, linh hoạt, khí huyết cũng thông suốt.  Nếu như tâm căng thẳng, cố chấp vào một thói quen nào đó, thân sẽ tự nhiên trở nên cứng còng, mất đi tánh linh hoạt, dẻo dai, biến thành lão hóa, các công năng của thân bị thoái hóa, bệnh tật phát sanh.

LỄ PHẬT LÀ MỘT CÁCH VẬN ÐỘNG ÐỂ KHÔI PHỤC THÂN TÂM KHANG KIỆN
Phật là Bậc Giác Ngộ.  Ngài cũng là bậc Ðại Y Vương về thân và tâm.  Lễ Phật là hình thức vận động phù hợp với những nguyên lý của y học, khiến cho nội tâm giao cảm với bậc Ðại Y Vương, khiến cho công năng chữa bệnh tự nhiên được phát khởi, có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, đề phòng bệnh tật, tự mình điều tiết, khiến cho thân, tâm và cả thế giới cùng điều hòa.  Vì thế, lễ Phật tiêu trừ được nguyên nhân gây bệnh, chữa lành tật bệnh.  

Lễ Phật nên mặc y phục tề chỉnh, sạch sẽ.  Nếu là người xuất gia phải nên đắp Y (Y trơn tức là Nạn Y hoặc Ca Sa).  Nếu là Cư Sĩ tại gia thì phải nên mặc lễ Sám Y (tức là Mạn Y), hoặc mặc y phục thống nhất theo quy định của từng đoàn thể.  Cố gắng tránh mặc y phục không tề chỉnh, đừng đội mũ, mặc quần áo quá ngắn hở lưng, hở đùi.  Xin mọi người lúc tự tu, phải nên tận tâm lễ kính.  Thập phần cung kính ắt thập phần lợi ích.  

DO LỄ PHẬT LÀ TU TẬP VỀ MẶT SỰ MÀ KHẾ NHẬP LÝ SÂU

Cách lễ Phật chúng tôi giới thiệu ở đây về cơ bản là tuân theo cách thức do ân sư là Pháp Sư thượng Sám hạ Vân truyền dạy tại Ðại Chuyên Học Sinh Trai Giới Học Hội, phối hợp những lời thuyết minh thô thiển theo nguyên tắc giải phẫu sinh vật.  Chỉ mong mọi người lúc mới học cách lễ Phật, trước hết, trong từng động tác sẽ được lợi ích thân tâm mềm mại, dần dà sẽ nhập lý sâu.  Vì thế bước đầu là phù hợp với những nguyên tắc của giải phẫu học, sinh lý học, vật lý học (hòng tránh khỏi những chướng ngại nơi thân nghiệp, nội tâm an định).  Cao hơn là từ việc lễ Phật trên mặt sự tướng, sẽ khế nhập lý Thật Tướng.

Xin quý vị chớ vì cách thức mình lễ Phật không đúng, trái nghịch với những nguyên tắc sinh lý học, động tác gấp rút, mất sức khiến mình bị mệt mỏi, đau đớn mà ngã lòng.  Có người lại do đó quy tội cho việc lễ Phật.  Ði đâu cũng bảo lễ Phật có những điều chẳng thoải mái như thế đó, tựa hồ Mười Phương Chư Phật xử tệ với họ.  Ðấy chẳng những là chẳng hiểu rõ lý, mà thậm chí còn gây tạo Khẩu Nghiệp, khiến người khác lầm tưởng lễ Phật là chẳng thoải mái, rất khổ sở.  Kỳ thật chỉ vì người ấy lầm lạc mà thôi!

LỄ PHẬT TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG, CHỚ LẦM TƯỞNG LÀ KHỔ NHỤC KẾ
Lễ Phật là để tiêu trừ Nghiệp Chướng, tiêu trừ trần lao cũng như tiêu trừ những chướng ngại đã tích lũy từ những tư thế chẳng đúng trong các hành vi thường nhật, kéo duỗi các chỗ căng thẳng, co rút, tiêu trừ những ứ trệ, đả thông những chỗ bế tắc, rèn giũa thân tâm không chướng ngại, chứ chẳng phải là khổ nhục kế.  Có kẻ cho rằng càng lễ Phật đến nỗi kiệt sức, thống khổ, càng quỳ đến nát cả đầu gối, mọp đầu đến rách trán, thì càng được Phật, Bồ Tát thương xót.  Sau đấy vì quá mệt mỏi, kiệt sức, không cách chi giữ mãi như thế được, tâm bèn lui sụt, hối hận.  Do chẳng nhẫn được sự cực khổ quá mức (cũng là do chưa xả được nỗi khổ nơi da thịt) bèn viện cả đống lý do: 
“Vì tôi lễ Phật chẳng được khoẻ khoắn như thế, bác sĩ bảo tôi đừng nên lễ Phật”.

Ðấy cũng là hạng thiếu tín tâm, chưa hiểu rõ lý rốt ráo.  Thật ra chẳng phải vì lễ Phật mà không khỏe khoắn, mà chính là vì chẳng hiểu cách lễ Phật và nhiều vọng tưởng nên mới không khỏe khoắn!  Kẻ mạt học này lúc mới học cũng hiểu lầm như thế, chẳng nắm được yếu lãnh, lễ Phật đến mệt nhoài nhọc khổ, cho rằng lễ Phật rất mệt mỏi, sau rồi mới biết là chính mình lầm lạc.  

NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN SỰ MỆT NHỌC TRONG KHI LỄ PHẬT
Lúc ban đầu tập hành lễ Phật thấy nhọc nhằn, đau khổ là vì:

  1. Phương pháp chẳng thích đáng, tư thế mâu thuẫn với những nguyên tắc kiện khang của sinh lý học: chẳng khéo giữ trọng tâm theo vật lý học, chẳng khéo dùng lực tự nhiên, tự dùng sức một cách nhầm lẫn, lãng phí sức.
  2. Các khớp, khủy, gân, thịt của mình vốn đã sẵn có những phế vật ứ trệ hoặc đã tiêu mòn vì tuổi tác (khác nào khe nước vốn sẵn có bùn lầy lắng đọng), lại còn thiếu vận động nhiều năm (giống như khe nước chẳng hề nạo vét).  Trong tình huống như thế, toan vét sạch một lúc thì đương nhiên những bùn lầy chìm đắm, ứ đọng sẽ nổi lên khiến cho nước trong khe ngầu đục quá mức.  Chỉ cần liên tục đổ nước trong vào, tự nhiên bùn lầy sẽ trôi đi, khôi phục sự trong sạch.  Quý vị nên hiểu rõ: lúc nạo vét sạch chất bẩn thỉu, tạp nhạp nổi lên chính là những bùn lầy sẵn có, chứ nào phải đâu do nạo vét sạch mà có.  Nếu bảo là do nạo vét mới có bẩn thỉu, tạp nhạp thì chính là chẳng quan sát, suy nghĩ rõ ràng vậy.
Cùng một lý ấy nếu phương pháp lễ Phật đã chính xác mà cảm thấy có bộ phận nào đặc biệt co rút hoặc đau đớn thì đấy chính là những “bùn lầy” ứ đọng nhiều năm hiển hiện, cho thấy chỗ ấy vốn bị ứ trệ hoặc mòn mỏi vì tuổi già, chứ nào phải là Phật hại chúng ta, cũng chẳng phải do lễ Phật mới bị đau đớn.  Nói cách khác lúc quét dọn thấy bẩn thỉu, lộn xộn, đấy chính là dấu hiệu báo trước cho sự thanh tịnh, quý vị càng nên tin tưởng dọn dẹp.  


Xin quý vị hãy quan sát, suy nghĩ chính xác, sự lý phân minh, chớ thấy mình có chút bịnh vặt liền quy tội cho việc lễ Phật.  Người hằng ngày thiếu vận động, bảo đi một đoạn ngắn đã thấy đau chân, bảo khiêng vật nặng liền kêu đau hông, nhức lưng; đương nhiên khi lễ Phật cũng phải bị đau nhức, mỏi nhọc.  Kỳ thật chỉ vì các chi thể thiếu được huấn luyện, hoạt động, chẳng tuần hoàn tốt, cho nên sự chuyển hóa năng lượng và thải trừ các chất cặn bã đều yếu kém.  Do vậy phải khéo luyện tập, nếu không lương tri, lương năng sẵn có sẽ bị mất đi.  Tuổi trẻ không tập luyện, đến già sẽ phải chịu khổ không thể nói.  Ðã nhận thức được giá trị của sự tập luyện thì mới có thể đột phá những khó khăn.

DỐC LÒNG VÀO MỘT CHỖ THÌ KHÔNG VIỆC GÌ CHẲNG HOÀN THÀNH, ÐỪNG PHÍ TINH THẦN THAN THỞ, GIẬN HỜN
Trong nhà Phật có rất nhiều người có thể mỗi ngày lễ Phật cả ba ngàn lạy, lặng lẽ dụng công (mặt chẳng đổi sắc, thung dung tự tại), đủ thấy họ là những người lễ lạy có phương pháp, có rèn luyện.  Quý vị phải khéo tự trân trọng bản năng Phật tánh, dụng tâm khai ý, đừng lãng phí thời gian, tinh lực quý báu để than khổ và oán hờn.  Thậm chí suốt ngày bôn ba tìm người khác giãi bày nỗi khổ, chẳng dụng tâm tự giải ngộ!  Nếu có thể đem hết tâm lực than khổ, bất mãn đó chuyên chú nơi việc khai phát tự tâm thì những phiền muộn đó sẽ bị trừ sạch!  Phật nói:
“Dốc lòng vào một chỗ, không sự gì chẳng hoàn thành”

NHỮNG ÐIỂM MẤU CHỐT KHIẾN VIỆC HỌC LỄ PHẬT TRỞ THÀNH KHÓ KHĂN HAY DỄ DÀNG
Quan sát những người tập luyện lễ Phật, chúng tôi nhận thấy: những đứa trẻ ngây thơ, thoải mái, không có tâm thành kiến sẽ học rất nhanh.  Có thể nói là chỉ vẽ cách lạy cho chúng từ một đến ba lần, đại đa số bọn trẻ đều làm được ngay.  Ðủ thấy đây là một loại động tác đơn giản, dễ học.  Quý vị đừng cho cách lễ Phật này là rắc rối, khó khăn, sanh tâm chán nản.  Cũng từ sự kiện trên, ta thấy lúc tâm không vướng mắc, thong dong, mềm dịu sẽ có khả năng học tập rất tốt, giác tánh sẽ phát khởi công dụng tốt nhất, trí huệ dễ khai phát nhất.  


Ðối với người trưởng thành, những người chưa từng học qua cách lễ Phật (tâm không có sẵn thành kiến) sẽ học rất nhanh vì chẳng bị thói quen từ quá khứ gây trở ngại, nắm được yếu lãnh rất nhanh, đạt được lợi ích thân tâm nhu nhuyễn.  Những người khó tập nhất là những người cá tánh khẩn trương, bướng bỉnh, hay những người cố chấp vào tập quán quá khứ.  Là vì họ chỉ mơ hồ thuận theo động tác đã quen, chẳng đặt chút ý niệm Giác Tánh.  Vì thế, lúc lễ Phật mơ màng trên dưới, tâm chẳng chuyên chú (thân cứ theo thói quen đứng lên, sụp xuống, tâm mơ tưởng chuyện khác).  Bởi vậy chẳng biết mình đang làm gì.  Ðứng lệch chẳng biết là đứng lệch.  Chắp tay chẳng biết là năm ngón so le, tán loạn.  Mỗi một động tác đều là vọng tưởng, làm qua quít mơ hồ, chẳng hề dụng tâm minh bạch rõ ràng để tự quán chiếu.  Ðấy là buông thả theo thói quen của tự thân, cô phụ Giác Tánh của mình.


Lễ Phật một lạy vốn là việc có thể hiểu rõ trong vài giờ, nhưng nếu học tập như thế thì mười năm cũng học chẳng xong.  Thậm chí học hơn cả mười năm, ngay cả động tác chắp tay cũng so le, tán loạn.  Ngay trong lúc khiêm cung cúi đầu cũng vẫn hồ đồ ngửa đầu, thẳng cổ.  Ngay trong khoảnh khắc ấy chẳng dụng tâm thì cái tật nhỏ cố hữu ấy dù mười năm vẫn chẳng thay đổi được.  Bởi thế, việc tu tập chẳng nhìn vào thời gian mà chú trọng tại một niệm tâm ngay trong lúc ấy có chuyên chú, có thong dong, có cung kính hay không.  

LỄ PHẬT LÀ CÁCH THỰC HIỆN ĐIỀU TỐT LÀNH BẬC NHẤT, CHẶT CHẺ NHẤT

Ðiều tốt lành bậc nhất:  Hãy tự đoan Chánh Tâm, hãy tự đoan Chánh Thân.  Kinh Vô Lượng Thọ dạy:
“Thế nào là điều lành bậc nhất?  Hãy nên đoan Chánh Tâm, hãy nên đoan Chánh Thân”.

Lễ Phật là cách thực hiện điều tốt lành bậc nhất một cách chặt chẽ.  Bởi lẽ việc lễ Phật rèn luyện sức quán chiếu, rèn luyện đoan chánh mà thung dung, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyễn.  Vận động đúng quy tắc sẽ vun bồi sức an định, sức giác chiếu và tinh thần lễ kính.  Dùng công phu ấy vận dụng vào mỗi một hoàn cảnh sinh hoạt thường nhật thì trong mỗi một động tác chẳng còn phân biệt giữa lễ Phật và sinh hoạt.  Nếu còn phân biệt giữa sinh hoạt và lễ Phật là đã đánh mất ý nghĩa của việc lễ Phật.  Hoàn chỉnh những sinh hoạt thường nhật chính là vận dụng tinh thần của việc lễ Phật: biến tán loạn thành chuyên chú, biến căng thẳng thành nhẹ nhàng, thung dung; biến cứng cỏi thành mềm mại, biến chấp trước thành rỗng rang, sáng suốt; biến mờ mịt thành giác chiếu, biến hồ đồ thành sáng suốt.

VÌ SAO CẦN PHẢI ĐOAN CHÁNH, THUNG DUNG
Cứ quan sát hoạt động nuốt chất lỏng của thực quản, ta sẽ thấy rõ: Thực quản phải thẳng và thông suốt thì mới có thể nuốt chất lỏng dễ dàng.  Nếu thực quản cong quẹo, việc nuốt chất lỏng cũng bị trở ngại.  Cùng lý đó nếu thân thể đoan chánh thì huyết quản mới thông suốt.  Nếu thân thể bị gò ép trong tư thế nghiêng lệch một thời gian dài thì huyết quản cũng như thực quản liên tục bị vặn cong, sự tuần hoàn của máu chẳng thông suốt.  Nếu dùng tay đè mạnh lên thực quản đã ở vị trí thẳng thì vẫn khó nuốt chất lỏng.  Vì thế cần giữ ngay ngắn nhưng phải thoải mái.  Nếu gân cốt chúng ta liên tục ở trong trạng thái căng cứng, co rút thì những mạch máu trong gân gốt bị trở ngại, khác nào thực quản bị đè chặt chẳng được thông suốt.  Ấy chính là gân cốt của chính mình tạo áp lực trên chính huyết quản của ta.  Áp lực ấy do tâm trạng căng thẳng gây nên.  Do vậy tâm có thư thái thì khí huyết mới thông suốt, chẳng đến nỗi tự mình áp chế chính mình.  Tâm có thư thái thì sức giác chiếu mới phát huy được, mới sáng suốt chuyên chú được.

GIỮ CHO THÂN NGAY THẲNG LÀ CƠ SỞ ĐỂ TU QUÁN
Bài kệ lễ Phật như sau:

Năng lễ, sở lễ tính không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương Như Lai ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện Như Lai tiền
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

Có kẻ vặn: Ðã là Không Quán thì cần gì phải luận đến nguyên tắc “đoan thân” (giữ cho thân ngay ngắn) nữa cơ chứ?

Ðáp: Tu hành phải có trình tự.  Nền tảng đã bất ổn lại xây lầu cao thì sẽ chẳng vững.  Xin hãy xem các trước tác của chư cổ đức.  Như trong cuốn Quán Vô Lượng Phật Kinh Sớ của Đại Sư Thiện Ðạo, trước khi bắt đầu giảng dạy pháp quán tưởng, Ngài cũng dạy công phu chuẩn bị để an định thân tâm làm cơ sở.  Ngay trước đoạn dạy:
“Lại quán Tứ Đại nơi thân trong ngoài đều không, trọn không có một vật”, có đoạn văn như sau: “Dạy ngồi xếp bằng ngay ngắn, giữ thân ngay ngắn, ngậm miệng, răng đừng cắn chặt, lưỡi chống lên vòm họng để cho hơi thở giữa yết hầu và mũi được thông suốt”.

Ðó chính là đoạn văn dạy về cách chuẩn bị trước khi tu Quán (tiền phương tiện), là lời dạy cực trọng yếu.  Kẻ sơ học đừng vội ham cao, chuộng xa, coi thường công phu “giữ cho thân ngay ngắn” Cây không rễ dễ bị khô, xin kẻ sơ học hãy dụng tâm chú ý. 

CÔNG ĐỨC THÙ THẮNG CỦA VIỆC LỄ PHẬT
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy lễ tháp miếu Phật, được Mười Công Đức:
  1. Một là được thân đẹp đẽ, giọng hay
  2. Hai là nói ra điều gì người khác đều tin phục
  3. Ba là ở giữa đám đông không sợ hãi
  4. Bốn là Thiên nhân yêu mến, bảo vệ
  5. Năm là oai thế đầy đủ
  6. Sáu là những chúng sanh có oai thế đều đến thân cận, gần gũi
  7. Bảy là thường được thân cận Chư Phật, Bồ Tát.
  8. Tám là đủ Đại Phước Báo
  9. Chín là mạng chung sanh thiên
  10. Mười là mau chứng Niết Bàn.
LỄ PHẬT TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG, KHAI PHÁT TIỀM NĂNG

Nói đại lược Nghiệp là hành vi, Chướng là chướng ngại.  Do các hành vi trong quá khứ tích lũy phát sanh các thứ chướng ngại, bất luận là chướng ngại nơi thân hay nơi tâm.  Các hành vi trong quá khứ vừa nói đó bao gồm các ý tưởng trong tâm (ý niệm), lời nói và các tư thế, hành động nơi thân thể.

Có người cho rằng phải gây sự ác lớn thì mới là tạo Ác Nghiệp, mới có Nghiệp Chướng.  Kỳ thật chỉ cần trong tâm động niệm là đã có Nghiệp (thiện niệm có thiện nghiệp, ác niệm có ác nghiệp.  Niệm Phật là Tịnh Nghiệp.  Thân có những động tác, tư thế đều là “Nghiệp”.  Bất cứ động tác, tư thế tạo thành những chướng ngại cho thân thì gọi là “Nghiệp Chướng” nơi “Thân Nghiệp”.  Rất nhiều sự đau khổ, bệnh tật có liên quan đến những tư thế thường ngày, tức là có quan hệ với Thân Nghiệp.  Thân Nghiệp lại chịu sự chỉ huy của tâm.  Hễ tâm bị vướng mắc, giằng kéo thì thân cũng hiện vẻ khẩn trương, bất giác tự gây nên chướng ngại cho chính mình (Nghiệp Chướng).  Vì sao nói niệm Phật, lễ Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng?  Là vì trong khi lễ Phật, tâm phải điều chỉnh, hướng đến cung kính và từ bi thanh tịnh, miệng niệm Phật nên không nói chuyện tạp nào khác, trở thành “Ngôn ngữ thanh tịnh”, động tác nơi thân trở thành nhu nhuyễn, khiêm hòa, cung kính.  Vì thế tiêu trừ được những tư thế xấu thường ngày gây những chèn ép, chướng ngại trên thân.  Cả ba phương diện Thân, Ngữ, Ý đều thanh tịnh, cung kính, nên tiêu trừ được những chướng ngại do những hành vi bất hợp lý trong quá khứ gây nên đó là tiêu Nghiệp Chướng và cũng thuận tiện cho việc tập luyện “Đạt an định trong khi động”. 

Chúng ta hãy yên lặng quan sát tư thế của chính mình hoặc quan sát tư thế của người khác để tự cảnh tỉnh chính mình nhưng cần chú ý: Mục tiêu là quay lại quan sát chính mình, sửa đổi chính mình, chứ chẳng phải để phê bình, chỉ trích.  Hễ tâm có vướng mắc thì bất giác gân thịt trên thân cũng tự nhiên co rút, căng cứng.  Do chẳng hề tự quán chiếu mình nên rất khó phát hiện để tự sửa đổi, khiến cho những chướng ngại rất dễ trừ bỏ cũng khó có cơ hội trừ bỏ.  Lúc lễ Phật là lúc tự soi xét mình, điều phục thân tâm, hết sức điều tiết thân tâm khiến thân tâm tự tại, rất thong dong, chẳng còn bị khẩn trương, chướng ngại rất oan uổng nữa! 

LỄ PHẬT ĐIỀU PHỤC THÂN TÂM
  • Khởi tâm lễ Phật, Phật liền biết ngay, phóng quang gia bị.
  • Tâm buông bỏ vạn duyên, nhất tâm chánh niệm niệm Phật (linh minh giác chiếu).
  • Thân thả lỏng các cơ (linh hoạt, thong dong, mềm mại).
Trong khi lễ Phật, thân tâm đều thong dong mà cung kính, chuyên chú, cử động nhẹ nhàng, sáng suốt, thoải mái.  Tuy là trong động mà vẫn an định quán chiếu.  Tuy là động mà nhu nhuyễn, không cứng cỏi, co rút, lực phân bố đều, phù hợp tinh thần “Vô trụ sanh tâm” trong Kinh Kim Cang.  Chẳng hạn như: khi gối chấm đất, tay liền lập tức duỗi nhẹ ra (chẳng chống mạnh xuống, phí sức!).  Khi ngồi quỳ xuống, hai gối và toàn thân lại lập tức hoàn toàn buông lỏng (vô trụ), tùy thời luyện tập, buông bỏ tâm khẩn trương chấp trước.


Rèn luyện sao cho có thể đề khởi, có thể buông bỏ khiến thân lẫn tâm đều thông suốt, không chướng ngại.  Trong động lại có thể tùy thời vận dụng tác dụng chiếu soi rành rẽ của tâm (sanh tâm).  Lại còn tùy thời buông lỏng chẳng giữ cứng (vô trụ).  Dù thong dong nhưng chẳng ngừng tinh tấn (vô trụ sanh tâm).  Tâm như bánh xe, xoay vần vận chuyển, trục là nhất niệm, nhưng lại “không tâm” chẳng vướng mắc.  Bánh xe tiến về trước, chuyển động, nhưng trung tâm của bánh xe không lay động. 

PHƯƠNG PHÁP LỄ PHẬT VÀ QUÁN TƯỞNG

PHẬT LÀ ÐẤNG GIÁC GIẢ
Lễ Phật để khai phát Giác Tánh, chứ không phải là sùng bái mù quáng, cũng chẳng phải là một cử chỉ được làm theo thói quen.  Lễ Phật là để bồi dưỡng năng lực “Hồi quang phản chiếu”, khiến cho Giác Tánh được phát khởi trước khi Quán Tánh (thói quen) phát hiện, chứ không phải là một động tác tầm thường.  Vì thế, phải luôn luôn Quán Chiếu từng động tác trong từng ý niệm.

Do đó, khi lễ Phật, xin chú ý là đừng nhắm mắt, từ đầu đến cuối là ngưng đọng ánh mắt để Quán Chiếu chính mình (đó gọi là Quán Tự Tại).  Thị lực tập trung vào chính giữa, làm gì cũng tưởng như có Đức Phật ngự trên đảnh đầu đang nhìn mình, chẳng thể hồ đồ bất giác.  Phải thâu tóm sáu căn, đừng để chúng tán loạn.

ÐỨNG NHƯ CÂY TÙNG, NGAY NGẮN NHƯNG THONG DONG
Hai chân đứng theo thế “Tiền bát, hậu nhị” (hai mũi chân cách nhau 8 phân, hai gót chân cách nhau 2 phân).  Ðầu ngay thẳng (đứng như tùng), dùng gót chân chịu lực, hít thở sâu, toàn thân buông lỏng.  Kiểm xem các ngón chân có hoàn toàn buông lỏng hay không.  Ðầu như quả chuông treo, rỗng rang, đoan chánh, tai nằm lọt giữa hai vai.  Gáy chạm vào cổ áo, xương cổ thẳng góc với xương ngực.  Tưởng như từ điểm giữa hai chân qua cột sống, lên đến giữa đỉnh đầu dường như nằm trên cùng một đường thẳng.  Thả lỏng các khớp nơi hàm dưới, đừng nghiến chặt răng.  Lưỡi, vòm họng, yết hầu đều thư giãn.  Ðầu lưỡi đặt ngay nơi vòm họng sau hàm răng trên.  Cuống lưỡi co lên trên như thể đang ngậm một búng không khí (giữ như vậy thì dễ dàng nuốt nước miếng ứa ra trong họng, khí quản lẫn yết hầu đều thông thoáng).  Cơ thể thư giãn thì khí mạch thông, đầu nhẹ nhõm, dễ giữ gìn chánh niệm, chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn. 

CHẮP TAY NHIẾP TÂM
Hai tay chắp ngang ngực (vai và cánh tay phải thư giãn).  Hai gốc ngón cái phải nằm ngang Huyệt Ðản Trung (là trung điểm của đường thẳng nối liền hai đầu vú).  Hai tay đừng áp lên ngực, nên đặt cách xa ngực chừng một phân.  Kiểm xem các ngón tay có áp sát vào nhau cùng hướng thẳng ngay ngắn lên trên hay không (nếu tâm tán loạn thì ngón út sẽ tự tách xa các ngón khác).  Tay chắp ngay ngắn nhưng phải rất thư giãn, đừng gồng cứng, hai tay dường như dựa vào nhau ngơi nghỉ.  Hít thở sâu, vai thả lỏng, đừng áp sát tay vào nách.  Giữ tư thế đoan chánh nhưng thư giãn, hít thở sâu, sung mãn.  Thâu nhiếp ánh mắt, chú mục nơi chính giữa hai tay (trung tuyến).  Ở mức cao hơn thì quán sát hơi thở ra vào nơi mũi.

CÚI ÐẦU
Mềm mại cúi đầu xuống lễ kính.  Ðầu giống như nhánh Lúa chín ươm ngả xuống cho đến khi cằm chạm vào ngực.  Cổ hoàn toàn buông lỏng đừng dùng sức (thoạt đầu nếu không làm được như vậy là do gân cổ đã cứng lâu ngày.  Cứ buông lỏng thì lâu ngày sẽ như khi ngủ gật, đầu tự nhiên gục xuống dễ dàng, chẳng cần phải tốn sức, tự nhiên sẽ buông lỏng được gân cổ).  Vẫn thâu nhiếp ánh mắt, phản quán chính mình.  Lễ Phật là tu tập “Tịnh trong động”, dù trong khi lễ lạy, cảnh vật trước mắt thay đổi, thủy chung vẫn lưu ánh mắt nơi chính giữa.

KHOM MÌNH
Ðộng tác này không phải là gập lưng ngả về trước khiến trọng tâm rơi vào đầu ngón chân, mà là khom mình hướng tâm (vẫn giữ trọng tâm nơi gót chân), hai gót chân vẫn đứng yên.  Giống như khi đang nằm ngửa, muốn ngồi dậy phải dùng sức của bụng eo, đùi, gối; khi cúi mình phải đẩy xương sống ra sau.  Có thể thót bụng lại chừng một phân, nhưng hai tay phải giữ mềm mại, bất động. 

THẢ LỎNG VAI
Vẫn cúi đầu, khom mình, hai tay vẫn chắp lại buông thẳng xuống, hướng đúng ngay nơi trung điểm của hai gót chân.  Hai tay chắp sát vào nhau.  Hướng theo đường thẳng tưởng tượng đi từ ngực xuống đến điểm chính giữa hai gót chân, mượn trọng lực để hạ hai vai xuống.  Tư thế này tiêu trừ sự căng thẳng thường nhật của hai vai.  Ðầu hai bàn tay buông xuống hướng đúng vào ngay điểm giữa hai gót chân là chuẩn mực để kiểm nghiệm xem mình có làm đúng động tác hay không.  Ðộng tác 7 và 8 là hai động tác liên tục.  Tay chạm đất là động tác chuyển tiếp trong nháy mắt.  Dù động tác này thực hiện rất nhanh (chừng 3 giây), nhưng việc giữ nguyên trọng tâm, độ mở của hai mũi bàn chân, cũng như sức nơi Ðan Ðiền là những điều rất trọng yếu.  Vì thế không thể lướt qua sơ sài được mà phải quan sát tách bạch.

CONG GỐI - CONG THÂN HẠ MÌNH XUỐNG
Ðầu vẫn cúi, khom mình, buông hai tay xuống dưới, bắp chân vẫn giữ thẳng, gập gối lại cho đến khi hai tay chạm đất (tựa hồ sau lưng mình có cái ghế, nhưng bắp chân đặt sát chân ghế, hướng ra sau ngồi xuống ghế).  Trong khi thực hiện động tác này, ánh mắt chuyên chú tại trung điểm của hai gót chân; rồi nhẹ nhàng tách hai tay ra, đặt hai bên bắp chân, xoay lòng bàn tay hướng ra sau để dễ áp lên mặt đất.  Trong khi làm động tác này, đừng để bắp chân ngả về trước.

QUỲ GỐI SÁT ÐẤT
Khi đầu ngón tay vừa chạm đất, nhấc gót chân lên khỏi mặt đất, chạm gối xuống đất, quỳ xuống.  Khi vừa quỳ xuống liền duỗi bàn chân và các ngón chân ra phía sau.  Lúc quỳ xuống, đầu các ngón tay áp đất sao cho ngang với đầu gối.  Hai đầu gối cách nhau chừng 5 phân (đừng tách đầu gối ra xa nhau quá kẻo lúc nằm rạp xuống, xương sống bị võng xuống quá mức).  Khi đầu gối đã chạm đất, hai tay liền buông lỏng (chẳng phí sức để chống đỡ thân), từ đầu đến cuối giữ trọng tâm ở nguyên một chỗ.

QUỲ TỌA THƯ THÁI
Ngồi xuống, hai lòng bàn chân hướng lên trên tạo thành chữ V.  Hai ngón cái khẽ chạm nhau, đừng để chúng đè lên nhau.  Ngồi lên mặt trong của hai bàn chân.  Qùy một cách yên định sao cho trọng lượng cơ thể đè lên hai gót chân. 

DUỖI TAY ÐÓN PHẬT
Ngồi vững vàng, trọng tâm đặt tại phía sau giữa gót chân, thả lỏng thân.  Vẫn cúi đầu, hai tay mềm mại hướng ra chính giữa phía trước, duỗi thẳng (đầu các ngón tay chạm hờ mặt đất).  Tuy cánh tay duỗi thẳng, nhưng vẫn thư thả, chẳng gồng cứng, chỉ dùng lực giữ hai vai tách ra mà thôi.  Lúc này bụng dưới hướng gần sát mặt đất, phần thân trên vẫn thư giãn (lực đặt tại Ðan Ðiền).

NGŨ THỂ ÐẦU ÐỊA
Ngồi vững vàng, vẫn trong tư thế quỳ, dùng đầu ngón tay giữa làm điểm tựa chống xuống đất, hai khủy tay hướng ra ngoài, đặt hướng về trước sao cho nằm ngang với hai lỗ tai.  Giãn hai vai ra, phía sau vai vẫn giữ bằng thẳng, đừng để chúng bị giật cục, tách hai nách ra (tăng dung lượng hoạt động của phổi).  Ngón tay, lòng bàn tay đều áp sát đất.  Trong khi tách hai khủy tay ra, phần thân trên đồng thời hạ xuống.  Nằm mọp xuống rồi thì Ấn Ðường (phần giữa hai chân mày) hướng xuống dưới, áp lên đất (bất tất phải hướng ra trước, hướng xuống dưới là được, khiến cho xương sống gồ lên phía trên).  Làm như vậy giúp cho ta hô hấp triệt để.  Ðảnh đầu, lưng và điểm chính giữa hai gót chân phải nằm trên cùng một đường thẳng. 

LẬT NGỬA BÀN TAY ÐÓN PHẬT


Trước hết, nhè nhẹ lật nghiêng bàn tay lên (lấy ngón út làm điểm tựa), rồi từ từ chuyển lòng bàn tay ngửa lên trên, như đóa Sen nở, như dốc lòng cúng Phật.  Lúc lật tay lên, lật sao cho lòng bàn tay nằm thẳng, hướng thẳng lên phía trên (đừng nghiêng ngả).  Ðừng căng cứng bàn tay, lật xong liền thả lỏng bàn tay ngay lập tức khiến cho các ngón tay mềm mại, nhẹ nhàng như những cánh Sen. Dùng bàn tay Sen ấy tiếp lấy chân Phật, hai bàn tay đặt cách đầu khoảng một nắm tay, hai ngón giữa cách nhau chừng 4 cm.  Các ngón tay tuy thả lỏng nhưng vẫn giữ cho chỉnh tề, nhu nhuyễn.

HÒA NHẬP CÙNG TÂM PHẬT, CHÚNG SANH VÀ PHẬT CẢM ỨNG NHAU
Lúc ngửa tay đón Phật, quán tưởng Ðức Phật đang đứng trên bàn tay Sen của mình tiếp nhận sự lễ kính.  Ngay khi ấy, tâm mình và tâm Phật hòa nhập, mỉm cười.  Tưởng Phật phóng quang chiếu ta, Phật quang chiếu thẳng vào đỉnh đầu, sung mãn toàn thân tâm (lúc ấy, toàn thân buông lỏng, mỉm cười, tự nhiên hô hấp thật sâu).  

KHÔI PHỤC TƯ THẾ QUỲ TỌA
Sau khi tiếp Phật xong, trước hết, lật bàn tay lại (dùng ngón út làm điểm tựa), úp lòng bàn tay xuống dưới, áp thẳng trên mặt đất.  Dựa vào sức hít vào để nhấc đầu lên, khôi phục lại tư thế quỳ tọa (hít vào tự nhiên, đừng cưỡng sức).  Hai tay vẫn úp sát đất, đặt ngang với đầu gối. 

QUỲ, DỰNG LÒNG BÀN CHÂN ÐỨNG LÊN
Dùng đầu gối làm điểm tựa (hai tay đặt bên gối chỉ phụ giúp hờ mà thôi).  Nhấc mông lên để hai chân linh hoạt đổi thành dạng chữ V ngược (khi quỳ ngồi xuống, hai chân chụm đầu ngón cái lại, bè gót ra thành hình chữ V.  Khi chuẩn bị đứng lên, hai gót chân chụm lại, hai đầu bàn chân chõe ra tạo thành chữ V ngược).  Cách chuyển chân: Hai ngón chân cái hướng ra ngoài, điểm xuống đất (hai ngón chân cái cách nhau 8cm).  Hai gót chân chụm lại, nhưng vẫn cách nhau chừng 2cm (mục đích là để khi đứng lên, vị trí của chân giống như thế đứng trước khi quỳ xuống - Tiền bát hậu nhị).

KHÔI PHỤC TƯ THẾ ÐỨNG
Dựa vào sức hơi thở (đừng cố ý thở quá sức, cứ hít thở tự nhiên), giống như con rối gỗ bị dây kéo lên, ta cũng như được Phật kéo theo đường thẳng chính giữa thân đứng lên, rất nhẹ nhàng, linh hoạt, trong khoảnh khắc đã khôi phục lại tư thế đứng (đứng lên hoàn toàn chẳng tốn sức cơ lưng, cũng chẳng cần dùng đến hai tay chõi xuống đất nhấc thân lên).  Từ đầu đến cuối, luôn giữ đầu ở vị trí cao nhất (mông không được cao hơn đầu).  Cần phải dụng tâm thể hội điểm trọng yếu này: dùng sức nhấc đầu lên, chẳng bận tâm đến các bộ vị khác của thân thể.  Trong khi đứng lên, đừng nhấc mông trước rồi mới nhấc đầu sau.  Nếu làm vậy sẽ rất tốn sức khiến hông nhức, lưng đau. 

PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHẬT PHÁP VÀ NGUYÊN LÝ Y HỌC

Hỏi: Cổ đức bảo lễ Phật như “thụ đảo sơn băng” (cây đổ, núi lở). Thế sao sách này lại bảo lễ Phật phải phù hợp với những nguyên lý, nguyên tắc?

Ðáp: Cổ đức dùng câu trên để diễn tả ý “Nhất tâm tin tưởng” giống như cây đổ, núi lở hoàn toàn đều do sức hút của trái đất dẫn khởi, hoàn toàn nhờ mặt đất nâng đỡ, không hề hoài nghi, cách ngại, cưỡng chấp; chứ không phải là bảo đột ngột đổ ầm xuống đất.  Dĩ nhiên cây đổ, núi lở tự nhiên đều tuân theo nguyên tắc trọng tâm của vật lý.  Ðấy chính là ý nghĩa “hợp lý” vậy.

VÌ SAO CẦN PHẢI CHẤP TAY?


Ý nghĩa
Nhà Phật thường dùng những động tác, điệu bộ không lời để diễn tả những đạo lý cực thâm áo.  Vì thế tuy là những cử chỉ thường thấy, cũng chớ nên xem thường lướt qua.  Chắp tay cũng thế.  Từ cổ người Ấn Ðộ quan niệm tay phải là “Tay Thần Thánh”, tay trái là “Tay bất tịnh”.  Vì thế, trong mỗi sinh hoạt thường nhật, họ có thói quen phân biệt khi sử dụng hai tay.  Chẳng hạn như: cầm thức ăn thì chuyên dùng tay phải, nhưng để tẩy rửa thứ gì ô uế thì chỉ dùng tay trái.


Nếu chắp hai tay lại, đấy là biểu thị sự hợp nhất của hai phương diện Thần Thánh và bất tịnh (tượng trưng cho sự dung hợp các phương diện đối lập, khôi phục diện mục chân thật nhất thể), mà cũng là biểu thị cho đạo lý chân tướng của vũ trụ (Thật tướng vô nhị, mà cũng là vô bất nhị).  Bát Nhã Tâm Kinh nói “Bất cấu bất tịnh” là cũng thể hiện ý này.  Vì thế, chắp tay để biểu thị Bản Lai Diện Mục tối chân thật của nhân loại.  Khi lễ Phật, hoặc lúc bình thường gặp nhau liền chắp tay, tượng trưng cho việc lấy diện mục chân thành để gặp gỡ nhau, tiêu trừ các thứ ngăn cách, vướng mắc, đối lập trong nội tâm.  Tâm người này, người kia dung thông, hệt như một.  Chắp tay cũng nhắc nhở phản bổn hoàn nguyên, ngộ nhập chân lý, khôi phục Bản Lai Diện Mục, khế nhập Thật Tướng của vũ trụ.  Ta còn có thể hiểu là hai tay tương ứng biểu trưng Lý và Trí, Ðịnh và Huệ.  Vì thế, chắp tay lại biểu thị Lý Trí nhất như, gìn giữ Ðịnh Huệ cân bằng.  Mười ngón tay tương ứng với Ngũ Đại (địa, thủy, hỏa, phong, không) hoặc tương ứng với “Thập Ba La Mật”.

Lại có thuyết cho rằng: Mười ngón tay tiêu biểu Mười Pháp Giới.  Ðầu ngón tay tán loạn tiêu biểu tâm chạy tán loạn trong  Mười Pháp Giới.  Chắp tay lại chính là thâu nhiếp loạn tâm, chuyên chú nhất tâm hướng Phật (hướng về nhất Chân Pháp Giới).  Nhất tâm hướng Phật thì liền đó tâm quang chiếu trọn mười phương, mà cũng là cảnh tỉnh tu hành phải khế hợp Lý Sự tương ứng (ngay khi đó, xoay Sự hướng về Lý).   Chắp tay còn biểu thị sự cung kính.  Sự cung kính ấy chẳng thuộc về tánh sai biệt, mà phát xuất từ cội nguồn Phật Tánh.  Cung có nghĩa là cùng một tâm chung.  Cùng chung một Phật Tâm chính là thể hội được đạo lý “Đây kia đều vốn sẵn Phật Tánh bình đẳng”; do đó, cung kính bình đẳng.  Ðấy chính là đã thể hội được sự cung kính tự nhiên “Bản lai nhất thể trước khi những quan niệm đối lập được hình thành”.



Phương thức
Theo Ðại Nhật Kinh Sớ, có 12 Cách Chắp Tay; chúng chính là cơ sở của các ấn khế.  Cùng với 6 Loại Quyền Ấn (Ấn tạo thành bằng cách nắm tay), chắp tay (Hiệp Chưởng ấn) được gọi chung là Ấn Mẫu. 12 Cách Chắp Tay này, mỗi cách đều hàm chứa ý nghĩa sâu xa.   So ra, trong các đạo tràng, thường dùng nhất là cách Kiên Thật Tâm Hiệp ChưởngQuy Mạng Hiệp Chưởng (Kim Cang Hiệp Chưởng).  Vì thế ở dưới đây sẽ nói rõ hai cách chắp tay ấy.
  1. Kiên Thật Tâm Hiệp Chưởng: Thả lỏng hai vai, nhưng vẫn giữ vai ngay ngắn, tuy đoan chánh nhưng vẫn thư giãn, đừng gồng cứng.  Hai bàn tay áp chặt vào nhau, như thể dựa vào nhau nghỉ ngơi.  Chắp hai tay ngang ngực, giữ phía dưới nách thông thoáng thì khí huyết mới chảy thông suốt. Gốc hai ngón cái nằm ngang Huyệt Ðản Trung, đừng áp hai bàn tay lên ngực.  Mắt nhìn vào khoảng giữa hai bàn tay, kiểm xem mình có thư giãn, đoan chánh hay không.  Người thường ngày hay tán loạn thì lúc chắp tay cũng rất khó làm cho đúng.  Lúc tâm loạn, năm ngón tay sẽ tách nhau ra mà ngón út cũng khó áp sát vào các ngón khác.  Cứ hễ chẳng nhất tâm chuyên chú thì ngón út liền tách ra.
  2. Quy Mạng Hiệp ChưởngCách chắp tay này trong kinh thường diễn tả bằng từ ngữ “Xoa Thủ Hiệp Chưởng”.  Lấy bàn tay phải làm chính, các đầu ngón tay đan nhau ở ngay đốt thứ nhất.  Ý nghĩa: Bàn tay phải là Phật Giới, bàn tay trái là Chúng Sanh Giới, biểu thị: chúng sanh quy mạng nơi Chư Phật.  Chắp tay lại tiêu biểu “Năng, Sở bất nhị”, “Chúng sanh và Phật như một”. Hành giả Mật giáo dùng các ấn này để biểu thị lòng cung kính đối với Bổn Tôn, tín tâm kiên cố. 


VÌ SAO KHÔNG CHẮP TAY ĐÈ LÊN NGỰC?
Vì làm vậy không những thể hiện hình tướng lười nhác, tán loạn, mà còn có hại về mặt sinh lý.  Hành giả làm như vậy có thể vì không biết nơi ngực có một tuyến, là cơ quan trọng yếu của hệ thống sản xuất ra chất dịch Lâm Ba.  Trong hệ thống miễn dịch nơi thân chúng ta, trọng yếu nhất là các Lâm Ba Cầu T (T cells).  Chúng có trách nhiệm trừ khử những ngoại vật xâm nhập cơ thể, cũng như tiêu hóa những tế bào phân chia bất thường (chẳng hạn như các tế bào ung thư).  Tuyến ngực nói trên tiết ra Hung Tuyến Tố giúp cho các tế bào T phân chia, phát triển tốt đẹp.  Nếu áp lực tinh thần quá lớn, mạch nơi ngực liền bị co rút, kém tác dụng.  Nếu đè tay lên ngực cũng khiến cho ngực phải chịu sức ép, khí huyết chẳng thông.

VÌ SAO KHÔNG NÊN NGHIẾN RĂNG?
Về phương diện tu tâm trong Phật pháp: Trong tác phẩm Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ của Thiện Ðạo Đ/S, trước khi dạy về cách Quán Tưởng, có một đoạn rất trọng yếu giảng về “Tiền phương tiện” (cách chuẩn bị trước khi quán tưởng).  Ðây chính là trình tự chẳng thể thiếu trong việc Tu Quán, người học đừng ham cao chuộng xa mà lướt qua.  Sách chép:
“Giữ thân ngay thẳng, ngậm miệng, nhưng răng đừng đè sát nhau, lưỡi chống lên vòng họng để luồng khí giữa yết hầu và mũi thông suốt”.  

Ðoạn văn trên viết ngay trước câu:
“Lại quán tứ đại trên thân, trong ngoài đều không, trọn không có một vật”.  


Ðủ thấy trước khi Quán Không hay thực hành 16 Phép Quán, vẫn phải “Giữ thân ngay thẳng, ngậm miệng, răng đừng nghiến sát, lưỡi chống lên vòm họng” (là vì nếu luồng khí giữa yết hầu và mũi không thông suốt thì não sẽ bị thiếu dưỡng khí, những công năng thông thường còn gặp chướng ngại, huống hồ là công năng quán tưởng cao thâm?)  Nho Gia cũng nói:
“Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh” (Người quân tử chú trọng cái gốc, gốc đã lập thì đạo sẽ sanh).  Nếu kẻ sơ học chẳng thiết thực, chắc thật tận lực thực hành những điều cơ sở căn bản, gốc cội chưa vững chắc thì rất khó lòng khai hoa kết quả được.

Tâm có vọng tưởng, chấp trước, khẩn trương, vướng mắc thì sẽ có những biểu hiện tự nhiên nơi thân nhưng mình chẳng biết: răng nghiến chặt, lưỡi cứng dính chặt vào họng, hơi thở nơi mũi lẫn yết hầu cũng chẳng thông suốt, cổ cũng căng cứng.  Như vậy chẳng nghiến răng chính là để cảnh tỉnh mình buông bỏ vọng tưởng, chấp trước.  Lúc tâm tình khích động thì chuyện nghiến răng, nghiến lợi rất dễ thấy; nhưng lúc bình thường, lòng có điều lo nghĩ, chẳng dễ nhận thấy mình đang nghiến răng, nghiến lợi mà cũng thường chẳng hay!  Chỉ cần trong tâm có điều vướng vất, gân mặt sẽ lập tức căng cứng nên tự nhiên mình nghiến chặt răng.  Không nghiến chặt răng chính là buông lỏng những sợi gân nhỏ trên mặt, mà cũng là buông bỏ những điều bận lòng trong tâm.

LỢI ÍCH VỀ SINH LÝ
Khiến cho ống dẫn nước bọt được thông suốt, nước bọt tiết ra đầy đủ.  Nước bọt là một chất dịch tiết rất quan trọng trong cơ thể, chẳng những nó giúp ích cho việc hấp thụ thức ăn, tiêu hóa, phân giải thức ăn, mà còn có những chất đề kháng, tăng cường sức kháng bệnh của cơ thể.  Chúng ta có 3 loại tuyến nước bọt lớn:
  1. Tuyến dưới tai: Ở phía trước tai, tuyến này đổ ra khoảng giữa cằm và gò má (ngay nơi răng hàm thứ hai)
  2. Tuyến dưới cằm: Nằm ở xương hàm dưới, đổ ra khoảng dưới lưỡi (chỗ lưỡi nối vào sàn miệng).
  3. Tuyến dưới lưỡi (nằm ở phía đầu lưỡi, nằm dưới niêm mạc của xoang miệng).  Có một ống dẫn khá lớn, tuyến nước miếng dưới cằm thường đổ ra theo đường này và khoảng mười ống dẫn nhỏ, mỗi ống đều có lỗ thoát nằm ngay dưới lưỡi và trong khoang miệng.
Ngoại trừ 3 loại Tuyến Nước Bọt lớn trên, chúng ta còn nhiều tuyến nước bọt nhỏ, phân bố trong vòm miệng phía trong má, môi trên, môi dưới, vòm họng cũng như trên đầu lưỡi.  Khi chúng ta nghiến răng, các ống dẫn và lỗ thoát của chúng đều bị đóng lại, nên miệng bị thiếu nước bọt, chẳng những miệng khô, lưỡi ráo, mà còn bị thiếu cả các diếu tố (enzyme) tiêu hóa, thành ra bị khó tiêu.  Ðồng thời còn bị thiếu cả kháng thể, sức miễn dịch giảm thấp.  Vì lẽ đó cần phải nên thư giãn, đừng nghiến chặt răng, chỉ ngậm chặt hai môi mà thôi.  Mọi người thường hay tìm mua những thức uống bên ngoài, chẳng biết thức uống tốt nhất, chính là nước miếng của chính mình.  Nước miếng chính là nguồn cung ứng bất tuyệt suốt 24 giờ, trọn bảy ngày.  Nhưng đa số chúng ta lại cắn răng, nghiến lợi khiến cho lỗ thoát của các tuyến bị bít chặt, lại còn than thở là miệng bị khô, thật là oan uổng quá (người hay than khô miệng, ráo lưỡi chắc chắn là người tâm thường lo âu, đăm chiêu, cứ cắn răng, nghiến lợi nhưng không hay, hoặc là kẻ tinh thần bị căng thẳng làm ảnh hưởng đến thần kinh, khiến nước bọt bớt tiết ra).

Hãy thí nghiệm: Trong lúc thư thái, đừng nghiến chặt răng, thả lỏng cơ cổ, đầu lưỡi áp nhẹ lên vòm họng trên, giữ cho có một khoảng trống giữa phía trên mặt lưỡi, gốc lưỡi và vòm họng trên như thể đang ngậm hột mận, hoặc ngậm một búng không khí thì tự nhiên nước miếng tuôn ra ào ào (vì lỗ thoát của các tuyến nước miếng được thông thoáng).  Làm vậy thì niệm Phật, lễ Phật chẳng bị khô miệng, lúc tâm tịnh thì nước miếng cực ngon ngọt, hơn hẳn các thứ thức uống trong thế gian.

Không nghiến răng thì tâm dễ an định, ninh tịnh, khả năng tư duy  
Khi quan sát vỏ não, người ta thấy chỉ cần nghiến răng thì liền xuất hiện dòng điện gây nhiễu “Não điện kế” (máy đo dòng điện ở vỏ não).  Ðủ thấy khi gân cơ căng thẳng do nghiến răng sẽ tạo thành sóng điện, khuấy rối sự an định trong tâm.  Phải thả lỏng thì tâm mới có thể an định.  Qua nghiên cứu, ta thấy rõ khi nghiến răng thì khả năng tư duy, phân tích, quán tưởng ở mức độ cao của não cũng bị trở ngại.  Vì thế nghiến răng thật bất lợi đối với việc tư duy Phật Pháp.

Nâng cao thính lực
Khi nghiến chặt răng, các gân cơ bị căng thẳng (Thân Nghiệp) khiến cho những huyết quản lớn nhỏ quanh tai cũng bị chèn ép.  Bởi thế công năng của tai cũng như thính lực tất nhiên đều bị giảm thấp (đó chính là Nghiệp biến thành Chướng).  Rất nhiều người than nghe giảng Phật Pháp hoặc nghe thầy giảng bài, nghe nhưng không hiểu, hoặc nghe xong quên ngay phần lớn là do hay nghiến chặt răng.  Chỉ cần biết thư giãn thì chẳng đến nỗi do Thân Nghiệp tạo thành Chướng Ngại vậy.

VÌ SAO NÊN ĐỨNG THEO KIỂU TIỀN BÁT HẬU NHỊ?
Nhà Phật chẳng hề yêu cầu người học làm những chuyện vô lý.  Lúc đứng, 2 gót chân cách nhau 2 phân là điều hợp lý.  Quan sát cấu trúc xương nơi thân người, ta thấy: thân ta có khung xương sống.  Phần cuối xương sống cong ra phía sau.  Vì thế trọng lượng của thân dồn nặng xuống chính giữa phía sau của phần chính giữa thân (nơi xương cùng).  Khi đứng, cần phải chia đều trọng lượng ấy cho hai gót chịu đựng.  Gót chân cách nhau 2 phân là vì: Khoảng cách này xấp xỉ độ rộng của xương sống, rất phù hợp để hai chân chịu đều sức nặng của thân thể dồn xuống.  Khoảng cách này rất thích hợp để giữ cho hai xương ống chân đứng thẳng thì gân thịt mới thư giãn được.  Khoảng cách này phù hợp với góc độ của khớp xương hông, khớp gối, khớp xương đùi, khiến chúng chẳng bị chịu lực quá đáng đến nỗi bị hư mòn, thoái hóa.  

Hãy tự thí nghiệm để chính mình quan sát lấy: Nếu gót chân cách nhau khá xa thì hai xương chân bị xéo đi, gân thịt nơi chân bị căng không đều, góc độ chịu lực nơi các khớp không thích nghi, không đều, rất dễ bị đau mỏi.  Nếu chụm sát hai gót chân lại thì xương chân cũng chẳng được thẳng, gân cốt cũng bị căng thẳng.  Hai ngón chân cái cách nhau 8 phân (nói 8 phân là ước chừng ngang với bề rộng của vai).  Chỗ rộng nhất trên thân là vai.  Giữ hai chân cách nhau vừa đúng chiều rộng của vai thì chân đã chịu lực tốt mà diện tích mặt chân đế cũng lớn, khiến cho trọng tâm rất ổn.  Nếu chân không cách nhau đủ 8 phân thì mặt chân đế quá hẹp so với mông, trọng tâm bất ổn.  Nếu lớn hơn 8 phân thì cơ đùi bị kéo quá căng, nên cũng không đáp ứng được yêu cầu về mặt vật lý.  Xét trên phương diện điều tâm trong nhà Phật “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh”.

VÌ SAO ĐỨNG THẲNG LẠI CẦN GÓT CHÂN CHỊU LỰC?
Như đã nói, cách đứng như vậy chẳng những vừa chỉnh tề, vừa đẹp mắt, khiến người khác thấy trang nghiêm, mà còn là phù hợp với những nguyên tắc giải phẫu sinh lý nữa.  

Xét về mặt Phật pháp.  Nhà Phật giảng: “Tánh không duyên khởi”, các pháp từ duyên sanh. Thể là chân không, nhưng Tướng là diệu hữu.  Ðã có thân thể giả tướng, thì trong giả tướng ấy đương nhiên có đạo lý nhân quả; nhưng sự biến hóa của giả tướng vẫn tuân theo nguyên tắc nhân quả.  Bởi vậy những động tác sinh hoạt thường ngày cũng phải tuân thủ theo điều kiện nhân quả.  Hãy thử suy nghĩ kỹ, trong 32 Tướng Hảo của Phật, có tướng “Gót chân rộng bằng” (gót chân viên mãn, chẳng lộ xương) và “Lòng bàn chân bằng phẳng”.  Những Tướng Hảo ấy đã tiết lộ ý nghĩa sâu thẳm “Gót chân chịu lực”.  Tổ Sư Nhà Thiền khi khảo nghiệm đệ tử đã dụng công đắc lực hay chưa, đắc pháp hay chưa, thường hỏi: “Gót chân chấm đất rồi chưa?”  Ðiểm này phải nghĩ hiểu cho kỹ vậy.  Có người cho rằng cần phải dùng cả bàn chân lẫn các ngón chân chịu lực thì mới đứng vững được.  Kỳ thật thời cổ phụ nữ bị ép bó chân, chỉ còn chừa mỗi gót chân chạm đất mà họ vẫn có thể đi vững, đứng vững được.

Xét về mặt giải phẫu sinh lý.  Từ xương bắp chân trở lên cả phân trên đều liên tục ở ngay trên gót chân (xương bàn chân chỉ nhằm tăng gia diện tích mặt chân đế).  Tự nhiên là trọng tâm của thân thể rơi vào chính giữa hai gót chân.  Vì thế ta dùng gót chân để chịu lực, cũng như khi trọng tâm của vật đã ổn thì vật sẽ tự nhiên ổn định, chẳng cần tốn sức.  Lúc trọng lượng đặt tại gót chân, mỗi ngón chân đều được thư giãn, gân thịt nơi chân cũng không cần phải hao tổn năng lượng để giữ vững tư thế cân bằng; cơ lưng cũng không phải phải gồng cứng.  Như thế sẽ bất tất phải lãng phí khí lực, bất tất phải gánh chịu nỗi nhọc nhằn, đau đớn không cần thiết.

Mỗi người có thể tự kiểm nghiệm, so sánh.  Khi đứng tự dùng tay sờ nắn xương hông thì sẽ thấy rằng: Nếu dùng mũi bàn chân làm điểm tựa thì xương nơi thắt lưng sẽ thúc vào bụng, các cơ quanh hông sẽ gồ lên.  Như vậy sẽ dễ bị đau lưng, mà cũng khó thể hô hấp sâu.  Nếu dùng gót chân để chịu lực thì xương nơi thắt lưng khá thẳng, không còn thúc vào bụng.  Hông, lưng, bàn chân, ngón chân, cơ chân đều thả lỏng, dễ hít thở sâu.

Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật