Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

NGÀY CỘNG TU T/4

Hạnh phúc thay Đức Phật giáng sanh - Hạnh Phúc thay Giáo Pháp cao minh


"A BREATH OF PEACE"



Vài hình ảnh trong ngày cộng tu niệm Phật T/4, mở đầu khóa tu sinh viên ba ngày tại Tịnh Nghiệp Đạo Tràng - Chùa Huệ Viễn.  Thành kính tri ân Quý Thầy cùng toàn thể đạo tràng đã ân cần trợ duyên cho huynh đệ chúng con một ngày tu niệm tràn đầy Pháp vị;  Kính chúc Quý Thầy, Cô cùng Quý Liên hữu đồng tu khắp nơi hân hoan chào đón Mùa Khánh Đản 2556 trong ánh quang minh của Chánh Niệm và Tỉnh Thức.


Hôm nay được tắm cho Như Lai
Trí huệ quang minh công đức lớn
Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm
Được thấy trần gian hiện Pháp Thân



Nam mô Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI Phật

Nam mô Đại Từ Bi Phụ A MI ĐÀ Phật



Hoằng Trạng
Mời xem video clip #1: "LỄ MỘC DỤC" trực tuyến ngay bên dưới:
http://www.youtube.com/watch?v=B1ntY0-kNCI&list=UU_rlKuD0Lu4w4ZSAwfFKRyw&index=1&feature=plcp
Mời xem video clip #2: "CỘNG TU T/4" trực tuyến ngay bên dưới:
http://www.youtube.com/watch?v=WWrXc5Xg_Zs&list=UU_rlKuD0Lu4w4ZSAwfFKRyw&index=1&feature=plcp
Mời xem video clip #3: "KHÓA TU T/4" trực tuyến ngay bên dưới:
http://www.youtube.com/watch?v=7UC36rGPl_0&list=UU_rlKuD0Lu4w4ZSAwfFKRyw&index=1&feature=plcp
































Hạnh phúc Tăng Già hòa hợp - Hạnh phúc thay Tứ Chúng đồng tu

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

LÁ CỜ PHẬT GIÁO

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA
LÁ CỜ PHẬT GIÁO

Phật Giáo là một tôn giáo khiêm tốn, chú trọng vào tâm linh và trí tuệ, nhắm vào mục đích giải thoát con người khỏi thế giới biến động và khổ đau.  Phật giáo không chủ trương tranh giành uy quyền, củng cố thế lực hay bành trướng ảnh hưởng trong thế giới vô thường này.  Phật Giáo cũng không xem nặng hình thức màu mè và biểu tượng, như vậy thì lá cờ Phật Giáo đã giữ vai trò gì và vị trí của nó như thế nào trong bối cảnh của Đạo Phật ngày nay.  Suốt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử Đạo Pháp, lá cờ  Phật Giáo đã xuất hiện từ lúc nào và ở đâu, ý nghĩa của nó là gì?

Lá cờ  Phật Giáo ta thấy ngày nay ra đời vào năm 1880 ở Tích Lan.  Người có ý kiến mang đến cho  Phật Giáo một lá cờ là một cựu Đại Tá quân đội Mỹ - Ông Henry Steel Olcoott.  Ông Olcoott đặt chân đến Tích Lan lần đầu tiên vào năm 1879, và ngay sau đó ông trở nên hết sức say mê  Phật Giáo.  Năm 1880 ông trở lại Tích Lan và trình lên Ủy Ban  Phật Giáo Colombo đề nghị tạo cho  Phật Giáo một lá cờ.  Hình thức và màu sắc của lá cờ xuất phát từ trí sáng tạo của ông Olcoot, dựa vào sáu vòng hào quang của Đức Phật và các màu sắc của cầu vồng.  Lá cờ cũng tượng trưng cho Lục Đạo tức sáu đường tái sinh hay sáu thể dạng của tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi.  Lá cờ được chính thức chấp nhận trên đất Tích Lan vào dịp Phật Đản ngày 28 tháng 4 năm 1885.  Tuy nhiên mãi đến ngày 25 tháng 5 năm 1950 trong lần hội nghị  Phật Giáo Quốc Tế ở thủ đô Colombo với 26 quốc gia tham dự, lá cờ Ngũ Sắc mới được chính thức và nhất trí chấp nhận, nói lên sự thống nhất của  Phật Giáo thế giới.

Ngày nay một lá cờ chung cho toàn thể Phật giáo - Biểu tượng của Hòa Bình, Từ bi và Trí tuệ, không phân biệt màu da và chủng tộc, không phân biệt giữa con người và tất cả những sự sống khác, đã phất phới trên lãnh thổ của hơn 50 quốc gia trên thế giới.  Ngày 24 tháng 2 năm 1951, Tỳ Kheo TÔ LIÊN đại diện Ủy ban Phật giáo thế giới tại Việt Nam đi dự hội nghị Colombo đã đích thân đem lá cờ quý báu này về cho quê hương chúng ta.  Lá cờ hình chữ nhật, chia đều thành sáu phần theo chiều dọc.  Màu sắc gồm các màu của cầu vồng, nhưng chỉ có năm màu được chọn: xanh dương, vàng nhạt, đỏ, trắng, màu cam (hay vàng nghệ), sọc thứ sáu của lá cờ tượng trưng cho sự tổng hợp của các màu vừa kể.  Vì thế sọc thứ sáu lập lại tất cả năm màu, nhưng xếp theo chiều ngang.  Tài liệu liên quan đến lời đề nghị nguyên thủy của ông Olcoott giải thích về lá cờ do ông đề nghị quả thật là khó tìm.  Có thể các tài liệu này vẫn còn được lưu giữ trong văn khố của Tích lan.  Bài viết này dựa vào một số tư liệu gần đây của Tây phương.  Trong các tài liệu ấy, cách giải thích về màu sắc có vẻ kém mạch lạc hoặc dùng những từ không phù hợp với Đạo Pháp cho lắm.  Sau đây là tóm lược ý nghĩa tượng trưng của các màu sắc:
  1. Màu Xanh Dương - Tượng trưng cho Thiền Định
  2. Màu Vàng Nhạt - Tượng trưng cho Chính Tư Duy
  3. Màu Đỏ - Tượng trưng cho Sinh Lực Tâm Linh
  4. Màu Trắng - Tượng trưng cho Đức Tin
  5. Màu Cam - Tượng trưng cho Trí Tuệ
  6. Màu Thứ Sáu - Tổng hợp của các màu trên - Tượng trưng cho Hành Vi Không Kỳ Thị.

Henry Steel Olcoott, ông là ai?  Ít nhất Olcoott cũng không phải là một người hoàn toàn vô danh.  Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1832 tại New Jersey (Hoa Kỳ) trong môt gia đình Tin Lành rất kỷ cương và ngoan đạo.  Ngay từ ngày còn nhỏ Cha Mẹ ông đã khuyến khích ông quan tâm đến những vấn đề tâm linh.  Cha ông là một thương gia, nhưng vào năm 1951 thì gia đình bị phá sản, và ông phải rời bỏ đại học.  Sau một thời gian gián đoạn học hành và sống nhờ họ hàng ở tiểu bang Ohio, ông trở lại đại học và trở thành một chuyên gia canh nông.  Ông viết báo và khảo cứu khoa học.  Lấy vợ năm 1860 sinh được bốn con, nhưng sau đó hai vợ chồng lại ly dị vào năm 1874.  Khi nội chiến ở Mỹ xảy ra, ông gia nhập quân đội liên bang, giữ những chức vụ hành chính khá quan trọng.  Đến năm 1865 ông xin xuất ngũ và quay ra học luật rồi trở thành luật sư. Ông lại tiếp tục viết báo.  Năm 1874 đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc đời của ông.  Năm đó đã 42 tuổi ông gặp một người phụ nữ rất lạ lùng và đặc biệt và hai người kết bạn với nhau.  Đó là bà Helene Petrovna Blavatsky một phụ nữ gốc người Nga, thuộc một gia đình thật quý phái, có lẽ còn quý phái hơn cả gia đình của Nga hoàng lúc bấy giờ. Bà rất quan tâm đến những vấn đề thần bí, đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới, kể cả Ấn Độ và Tây Tạng và viết khá nhiều sách.  Bà Blavatsky và ông Olcoott cùng với một người bạn nữa là William Quan Judge đứng ra thành lập hội Thông Thiên Học, một truyền thống bao gồm tất cả các tôn giáo.  Ông Olcoott được bầu làm chủ tịch của hội này.

Năm 1878, trụ sở chính của hội Thông thiên học được chuyển từ Mỹ về Adyar, một vùng ngoại ô của tỉnh Madras ở Ấn Độ.  Trụ sở này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.  Nhưng điều đáng nêu lên hơn hết là ông Olcoott và bà Blavatsky đến Tích Lan ngày 16 tháng 5 năm 1880, và được dân chúng thủ đô Colombo tiếp đón rất trọng thể vì họ đã được biết đến ông hoặc đã nghe danh ông từ trước.  Ngày 25 tháng 5 ông Olcoott và bà Blavatsky đã đến quỳ gối trước một tượng Phật khổng lồ tại Đền Wijananda và xướng lên bằng tiếng Pa-li những câu thệ nguyện về Tam Quy và Ngũ Giới để xin được quy y.  Dư luận thời bấy giờ thường gán cho ông cái biệt danh là "Người Phật Giáo da trắng".  Thật vậy ông là một trong những người Mỹ đầu tiên đã quy y. 


Sau đó mặc dù ông đến Tích Lan nhiều lần, và mỗi lần chỉ lưu lại trong một thời gian ngắn, ông đã thành lập được nhiều đại học  Phật Giáo, chẳng hạn như các Đại Học Ananda và Nalanda, các trường Cao Đẳng Phật Học Dharmaraja và Visakha Vidyalaya… tổng cộng gần 400 trường Phật học.  Ông giúp người Tích Lan phục hồi truyền thống  Phật Giáo, chống lại ảnh hưởng ngoại lai do thực dân Anh du nhập vào Tích Lan.  Ngoài ra ông còn cổ động cả phong trào chống lại thực dân Anh trên phần đất này. Tháng 7 năm ấy tức năm 1880, ông rời Colombo như một vị anh hùng của dân tộc Tích Lan.  Sau đó ông quay trở lại vào những năm 1881, 1882 và 1884.  Năm 1884 khi rời Tích Lan ông đến thẳng Luân Đôn và đòi chính quyền Anh phải thực thi sáu điều khoản ông đưa ra trong mục đích bênh vực người Phật Giáo Tích Lan bị ức hiếp và bị hạn chế sinh hoạt Phật sự ngay trên quê hương của họ.  Chính quyền Anh quốc chỉ chấp nhận hai điều khoản mà thôi.  Việc kể lại những tình tiết trên đây chỉ có mục đích duy nhất trình bày nhiệt tâm của ông Olcoott đối với Đạo Phật nói chung và đối với người Phật giáo Tích Lan nói riêng mà thôi.  Chẳng những ông có công bênh vực và giúp hồi phục nền  Phật Giáo Tích Lan mà còn mở đường cho  Phật Giáo trên đất Mỹ nữa.

Ông mất ngày 17 tháng 2 năm 1907 tại Adyar.  Người ta đã đắp lên người ông một lá cờ Mỹ và một lá cờ Phật giáo rồi mang đi hỏa táng.  Từ đó đến nay, 17 tháng 2 đã trở thành một ngày lễ của Tích Lan.  Học sinh, sinh viên cùng với các nhà sư, cầm cờ  Phật Giáo đi diễu hành, đặt vòng hoa và lễ vật dưới chân đài tưởng niệm ghi nhớ công đức của ông.  Ngày nay một đường phố lớn ở Colombo mang tên ông.  Cách giải thích các màu sắc của lá cờ như đã trình bày trong phần trên đây dựa vào một vài tài liệu bằng Pháp ngữ.  Trong một số tài liệu bằng Anh ngữ thì cách giải thích có khác hơn đôi chút, tuy vẫn thiếu mạch lạc và không thống nhất. Sau đây là cách giải thích thường thấy:
  1. Màu Xanh Dương - Tượng trưng cho Từ Bi
  2. Màu Vàng - Tượng trưng cho Trung Đạo
  3. Màu Đỏ - Tượng trưng cho Đạo Đức
  4. Màu Trắng - Tượng trưng cho Đạo Pháp
  5. Màu Cam - Tượng trưng cho Trí Tuệ
  6. Màu Tổng Hợp - Tượng trưng cho Sự Thật tuyệt đối.
Vì lý do có nhiều khác biệt trong ý nghĩa tượng trưng của màu sắc như đã trình bày, do đó chúng ta cũng không nên quá chú trọng và câu nệ vào cách giải thích từng màu.  Ta hãy xem lá cờ Phật Giáo tượng trưng cho ánh hào quang của Phật là đủ.  Kinh sách kể rằng khi Đức Phật đạt được Giác Ngộ dưới gốc cây Bồ Đề thì thân của Ngài trở nên sáng ngời, tia sáng toả rộng trên đầu của Đức Phật tạo thành một hào quang Sáu Màu rạng rỡ.  Lá cờ được chia thành sáu phần hay sáu sọc theo chiều dọc tượng trưng cho sáu thể dạng của chúng sinh, tức Lục Đạo. Sọc thứ sáu tổng hợp của năm màu, tượng trưng cho sự hòa đồng, không phân biệt giữa tất cả chúng sinh.  Chẳng những lá cờ Phật Giáo không mang tính cách kỳ thị về quốc tịch, màu da và chủng tộc giữa con người, mà còn chủ trương tôn trọng và hòa đồng tất cả mọi hình thức và dạng thể của sự sống.

Ta cũng có thể xem lá cờ Phật Giáo là ánh sáng của cầu vồng.  Đối với Phật Giáo Tây Tạng, cầu vồng tượng trưng cho Báo Thân - Sambhogakaya tức hiện thân của Phật, hình tướng của Phật.  Sau hết, tất cả mọi người đều tìm thấy một chút màu cờ của quốc gia mình trên lá cờ Ngũ Sắc của Phật Giáo.  Lá cờ Phật Giáo không kéo lên để phân định hay đánh dấu một lãnh thổ nào cả, nó chỉ có thể kéo lên ở một nơi thật rộng lớn, một giang sơn không biên giới, vượt khỏi mọi sự tranh giành.  Giang sơn đó là giang sơn của Từ Bi và Rộng Lượng, của yêu thương và hy vọng.  Giang sơn đó rộng lớn và mênh mông như không gian.  Lá cờ Phật Giáo cũng không tượng trưng cho một chủ thuyết hay một niềm kiêu hãnh nào cả.  Lá cờ Phật Giáo là biểu hiệu của Hoà Bình, không hề nhuốm một giọt máu nào, dù là giọt máu của một sinh vật nhỏ nhoi và tầm thường nhất.  Lá cờ Phật Giáo được kéo lên để nhắc nhở chúng ta hãy hy sinh tất cả cho sự an vui và hạnh phúc của nhân loại và tất cả chúng sinh.  Lá cờ ấy cũng không kêu gọi và không khích động ta phải xông lên để đương đầu với một kẻ thù nào cả.  Đối với người Phật tử thì kẻ thù nguy hiểm và khó chế ngự nhất là kẻ thù đang ngự trị trong tâm thức ta, đang ẩn nấp trong thân xác ta.  Kẻ thù trong tâm thức là vô minh, hận thù, tham lam và bám níu; kẻ thù ẩn nấp trong thân xác là những bản năng thú tính của ta.

Một lá cờ nói chung, chỉ là một biểu tượng và ta có thể gán cho nó bất cứ một ý nghĩa nào ta muốn.  Đối với lá cờ Phật Giáo rất có thể ta cũng nhìn thấy nó mang nhiều màu sắc vui mắt mà xem như một vật trang trí ở cổng chùa, trước cửa nhà hay trên bàn thờ Phật.  Tuy nhiên biết đâu rằng đến một lúc nào đó khi ta nhìn lá cờ Phật Giáo, tâm thức ta bỗng nhiên sẽ bừng lên ánh hào quang của Phật rạng rỡ và muôn màu.  Khi nhìn thấy lá cờ, đột nhiên ta sẽ quán nhận được tất cả sáu thể dạng của chúng sinh: từ Ngạ Quỷ đến Súc Sinh, từ con người đến Thánh Nhân và Thiên Nhân; Không phân biệt, không ghét bỏ, không hận thù hay ganh tỵ.  Tất cả đều cùng ta đang quờ quạng trong bóng đêm, như đang bước đi trong một giấc mộng du.  Thế rồi tâm thức ta bị khích động mãnh liệt bởi lòng Từ Bi vô biên và ta ước mong gieo rắc tình thương của ta trên khắp Sáu Nẻo của luân hồi.  Hoặc cũng có thể khi nhìn lá cờ Phật Giáo, tâm thức ta bỗng thấy cả một cầu vồng chan hòa ánh sáng, nối liền tâm thức ta và tâm thức của Phật.  Chỉ khi nào thực hiện được như thế, thì có lẽ lúc ấy ta mới mong có đủ sức mạnh để hiểu được hết ý nghĩa thật sự của lá cờ Phật Giáo là gì.

Bures Sur Yvette (Pháp quốc) 20.05.07
Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

TỨ NIỆM XỨ

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


TỨ NIỆM XỨ
CON ĐƯỜNG THỰC TIỄN

Khi Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, Ngài A Nan đã thưa cùng đức Thế Tôn câu hỏi:
"Khi Thế Tôn nhập diệt thì ai làm thầy chúng con và chúng con an trụ vào đâu?"


Thế Tôn từ bi trả lời: 
"Các ông lấy giới luật làm thầy và an trụ trong Tứ Niệm Xứ!"


Là một Tín Đồ của Phật Giáo, việc đầu tiên trong cách hành trì là phục vụ, đây là con đường hết sức thực tiễn.  Tuân thủ theo việc làm này cũng là hướng đến Niết Bàn Giải Thoát, mà cái gọi là Đạo, một nữa nói là Tứ Thánh Đế bao gồm cả Bát Chánh Đạo.  Nhưng sự thật Đạo cũng bao gồm cả 37 Phẩm Trợ Đạo.  Tứ Niệm Xứ là phần đầu tiên của 7 phần trong 37 Phẩm Trợ Đạo.  Giáo lý Duyên Khởi mà Đức Phật chứng ngộ tại dưới gốc Bồ Đề cũng chính là giáo lý căn bản của Phật Giáo.  Pháp Duyên Khởi không phải là do Đức Phật sáng tạo hoặc chế định, mà là do Ngài chứng ngộ.  Chân Lý của vũ trụ thế gian là - Pháp Nhĩ Như Thị.  Đức Phật lấy pháp làm thân, bởi vậy trong Kinh LIỄU BỔN SANH TỬ Ngài có dạy:
"Nếu Tỳ Kheo thấy Duyên Khởi tức là thấy Pháp, nếu chân chánh thấy Pháp tức là thấy Ta"

Nhưng sau khi Đức Phật chứng ngộ, Ngài Sơ Chuyển Pháp Luân tại Vườn Lộc Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như, Ngài không nói Pháp Duyên Khởi mà lại nói Tứ Thánh Đế.  Vậy tại sao Đức Phật đối truớc năm anh em Kiều Trần Như không nói Duyên Khởi mà nói Tứ Thánh Đế ?Đức Phật nói:

"Pháp Duyên Khởi rất là thậm thâm.  Duyên Khởi Pháp là diệu lý của tối ư của sự sâu xa, tối ư của sự vi diệu, rất khó thông đạt đến"


Phần đông chúng ta chưa hiểu rõ một cách triệt để.  Đức Phật, Ngài quán căn cơ mà thuyết giáo, lấy Duyên Khởi Pháp tổ chức một cách thứ tự, lấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo của Tứ Thánh Đế để biểu đạt.  Bởi vậy Đức Phật khi Sơ Chuyển Pháp Luân Ngài không nói Duyên Khởi mà nói Tứ Thánh Đế.  Tức cái gọi là - Khổ này nên Biết, Tập này nên Đoạn, Diệt này nên Chứng, Đạo này nên Tu - Lúc Đức Phật còn trụ thế, Ngài khuyên các đệ tử siêng năng học tập Tứ Thánh Đế, nếu như chân chánh lý giải về Tứ Thánh Đế, do thực tiễn Bát Chánh Đạo thì có thể kiến lập Giải Thoát Tri Kiến của quả vị A La Hán.


Sự thật Tứ Thánh Đế vẫn là Duyên Khởi.  Khổ Tập là lưu chuyển duyên khởi, Diệt Đạo là hoàn diệt duyên khởi.  Mà thực tiễn của Bát Chánh Đạo là con đường thông đến Niết Bàn.  Đức Phật dạy các đệ tử, không chỉ là Tri mà quan trọng là Hành, đó mới là thực tiễn của Bát Chánh Đạo.  Bởi vậy thời đại Nguyên Thủy Phật Giáo, các vị Tỳ Kheo trong Tăng đoàn chỉ có Tam Y Nhất Bát, ăn một ngày một buổi, ngủ dưới gốc cây chỉ một đêm.  Đây là không để cho vật chất làm hệ lị mà chuyên tâm tu đạo.  Trong Thánh Điển của Phật Giáo Nguyên Thủy, lấy chổ bất đồng trong phương thức ra thảo luận thực tế, tức phương pháp trong tu tập, đến thời đại của Bộ Phái Phật Giáo sau này, việc tu tập của Tỳ Kheo vẫn theo nếp cũ của một vài phương pháp, gộp lại hoàn chỉnh rồi tổ chức thành 37 Phẩm Trợ Đạo.
  1. Tứ Niệm Xứ
  2. Tứ Chánh Cần
  3. Tứ Như Ý Túc
  4. Ngũ Căn
  5. Ngũ Lực
  6. Thất Bồ Đề Phần
  7. Bát Chánh Đạo Phần.
Trong bảy phần trên đây tổng hợp lại thành 37 Phẩm Trợ Đạo, nhưng trong bảy phần này mỗi phần đều có những Pháp Môn tu tập không đồng nhau.  Đức Phật, Ngài dựa vào căn cơ bất đồng của các đệ tử mà khai thị bất đồng về Pháp Môn.  Cho nên trong lúc tu tập quyết không phải là thực tiễn toàn bộ của 37 Phẩm Trợ Đạo, mà chỉ là mỗi phân hệ khác nhau.  Tứ Niệm Xứ tức một phần trong bảy phần của 37 Phẩm Trợ Đạo.
Trong Kinh TẠP A HÀM Đức Phật nói về Tứ Niệm Xứ như sau:

"Tôi nghe như vậy, một thuở nọ Đức Phật ở tại rừng Kỳ Thọ của Trưởng Giả Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ.  Bấy giờ Thế Tôn nói với các vị Tỳ Kheo rằng có Tứ Niệm Xứ, sao gọi là bốn: Vị Thân Thân Quán Niệm Xứ, Thọ Tâm Pháp Pháp Quán Niệm Xứ.  Này các Tỳ Kheo, đây gọi là Tứ Niệm Xứ.  Tu Tập đầy đủ, Tinh Tấn nổ lực, Chánh Niệm, Chánh Tri phải nên học.  Phật nói Kinh này xong, các vị Tỳ Kheo lắng nghe và hoan hỷ phụng hành".


Cũng trong Kinh TẠP A HÀM, Đức Phật Ngài xưng Tứ Niệm Xứ là Nhất Thừa Đạo.
"Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại rừng Kỳ Thọ của Trưởng Giả Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ.  Bấy giờ Thế Tôn nói với các vị Tỳ Kheo rằng: có một con đường (Nhất Thừa Đạo) nhiếp tất cả chúng sanh, diệt trừ ưu bi khổ não, chứng như thật pháp.  Cái gọi là Tứ Niệm Xứ đó, sao gọi là bốn: Thân Thân Quán Niệm Xứ, Thọ Tâm Pháp Pháp Quán Niệm Xứ.  Phật nói Kinh này xong, các vị Tỳ Kheo lắng nghe và hoan hỷ phụng hành". 


Cái gọi là Nhất Thừa tức là chỉ nương vào pháp tu hành mới có thể Chứng Đạo.  Trong Kinh TỨ NIỆM XỨ, Đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ có thể đoạn trừ Phiền Não Kiết Sử.  Lời dịch của một đoạn Kinh dưới đây có nói:
"Này các vị tỳ kheo, ví như người tu hành muốn tịnh hóa chúng sanh, diệt trừ Ưu Bi Khổ Não, thực hành Chánh Đạo mà chứng Niết Bàn, đây là Con Đường Duy Nhất, cũng gọi là Tứ Niệm Xứ". 


Nội dung của Tứ Niệm Xứ được thuyết minh như sau:
  1. Thân Niệm Xứ - Thân Niệm Trụ tức là quán tự tướng của Thân là bất tịnh, đồng thời quán các tướng của Thân là Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã; lấy Tịnh đối trị điên đảo.
  2. Thọ Niệm Xứ - Thọ Niệm Trụ tức là quán nguyên nhân của Sanh Khổ là do truy cầu Dục Lạc và quán các tướng Khổ, Không.v.v... lấy Lạc đối trị điên đảo.
  3. Tâm Niệm Xứ - Tâm Niệm Trụ tức là quán Tâm năng cầu của Vô Thường Sanh Diệt và quán các tướng khác; lấy Thường đối trị điên đảo.
  4. Pháp Niệm Xứ - Pháp Niệm Trụ tức là quán tất cả pháp đều nương vào Nhân Duyên mà Sanh Khởi, không có Tự Tánh và quán các tướng khác; lấy Ngã đối trị điên đảo.
Căn bản của phàm phu gồm có 4 loại điên đảo tri kiến: Thường điên đảo, Lạc điên đảo, Ngã điên đảo, Tịnh điên đảo.  Tức phàm phu không nhận rõ cái tướng Chân Thật của cảnh giới mê muội.  Lấy cái Vô Thường của thế gian chấp là Thường, lấy cái Khổ chấp là Lạc, lấy cái Vô Ngã chấp là có Ngã, lấy cái Bất Tịnh chấp là Tịnh.  Mà tu quán về Tứ Niệm Xứ, tức là đang đối trị với bốn món điên đảo nói trên.  Tu quán về Tứ Niệm Xứ tức là tập trung Tâm Ý lại một điểm, lấy sự phòng ngừa để đối trị Vọng Tưởng, Tạp Niệm sanh khởi làm phương pháp quán.  Người tu Tứ Niệm Xứ trước tiên là phải tùy lúc tự hiểu rõ trạng thái của tâm lý.  Tức là:
  1. Tâm lý của chúng ta tập trung chuyên nhất hay là tán loạn làm phiền toái?
  2. Tinh thần phải thoải mái, hay là hôn trầm mê ám?
  3. Tinh thần thoải mái, hay là ở trong trạng thái căn thẳng?
  4. Tâm của chúng ta xung mãn rồi thì các thứ tham dục có khởi niệm không?
  5. Tâm của chúng ta có khởi niệm sân hận không? 
  6. Tâm của chúng ta có Từ Bi, có quan tâm đến người khác hay không?
Chúng ta phải tùy thời quán chiếu nội tâm của chúng ta, đây gọi là bước đầu của Tu Tập.  Trong Kinh NIỆM XỨ, Đức Phật có khai thị rằng:
"Này các Tỳ Kheo, một vị Tỳ Kheo nên như thế nào để quán sát Tâm mình?  Một vị Tỳ Kheo nên biết và hiểu rõ trong Tâm của mình là có Dục hay là không có Dục, là có Sân hay là không có Sân, là có Si hay là không có Si, là có Thúc Liễm hay là không có Thúc Liễm, là có Nhiệt Huyết Tu Hành hay là không có Nhiệt Huyết Tu Hành, là có Tiến Bộ hay là không có Tiến Bộ, là có Tập Trung hay là không có Tập Trung, là có Giải Thoát hay là không có Giải Thoát?  Các điều này các Ông nên quán xác cho rõ".

Tu quán về Tứ Niệm Xứ vẫn là lấy Giới Định Tuệ - Tam Học làm căn bản.  Nếu như không tu Tam Học mà muốn làm một người quán thành tựu về Tứ Niệm Xứ thì đó cũng giống như dùng mòi gỗ mà câu Cá.  Chúng ta là người phàm tục học Phật, tuy nhiên không thể giống như các bậc Thánh Xuất Gia y luật mà hành.  Nhưng trên cơ bản quy luật của cuộc sống, vẫn là cơ bản của việc tu hành.  Như giữ gìn 5 Giới, không thể chìm đắm trong Dục Lạc của Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc.  Tiến thêm một bước nữa là hành Thập Thiện, tịnh hóa Thân, Khẩu, Ý của chúng ta.  Nếu Tâm huân tập những điều ham muốn, lợi mình tổn hại đến người khác, Tâm chứa đầy sân hận, kết oán báo thù, ngu muội vô tri, làm việc điên đảo, tâm hồn luôn phiền não vô an v.v... Như thế có thế gọi là tiến một bước trong Định sao?

Định còn gọi là Tam Ma Đề, tuy nhiên để huấn luyện cho hành giả có tố chất tu tập, ở bất kỳ tình huống nào cũng có thể dùng ý chí tập trung vào cảnh Định.  Nhưng người mới học Phật, chắc chắn phải có sự hướng dẫn của bậc Thiện Tri Thức, tuần tự thâm nhập, nhất nhất không được quên tu luyện.  Trong quá trình tu Định, cảnh giới của nội chứng, không thể lấy ngôn ngữ văn tự của thế tục để thấu đạt, mà là phải tu quán Tứ Niệm Xứ.  Cũng có nghĩa là lấy cái Trí của Năng Quán, quán cái Cảnh của Sở Quán, để đoạn trừ tri kiến điên đảo của Nhân Ngã.  Như trên đã nói, chủ yếu là thuyết minh về lý luận của Tứ Niệm Xứ, đối với phương pháp tu trì thì không thể thâm nhập.  Thực tiễn của việc học Phật, cần phải tự trang bị đầy đủ tư cách của một hành giả, không được có Tâm đố kỵ, ích kỷ.  Chỉ có Tâm mong cầu cho mọi người có thể thành Phật. Không được có Tâm hoài nghi, sân hận, chỉ có Tâm mong cầu cho chúng sanh trong cõi Trời Người mau thành Phật.  Nếu quý vị làm được như vây, thì thâm và tâm luôn an lạc.  Đây không phải là thực tiễn trong tu tập Tứ Niệm Xứ hay sao?

Vu Lăng Ba - Thích Chúc Tiếp dịch

Nguồn: Đạo Phật Ngày Nay

Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

TÂY PHƯƠNG N/K - F/1


Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


NIỆM PHẬT THÍCH ỨNG CẢ BA CĂN
Trích: TÂY PHƯƠNG NHẬT KHÓA - Chương I/Phần I/Tiết I
Cố H/T. Thích Thiền Tâm


Các pháp môn khác nếu như thấp thì bậc THƯỢNG CĂN chẳng thích tu và nếu như cao tất các bậc TRUNG CĂN, HẠ CĂN không kham tu học.  Chẳng hạn như về THIỀN TÔNG thì đạo lý vô cùng mầu nhiệm cao siêu, một niệm đi thẳng vào chân tâm sáng suốt, ứng dụng tự tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái hư dấu vết chẳng còn lưu.  Nhưng khúc điệu càng cao, thì người họa lại càng thêm thưa ít.  Nếu chẳng phải là bậc tuệ căn gieo sẵn, e cho vẽ cọp không thành, vì thế nên cổ đức đã dạy:
"Chẳng phải căn thượng thượng - Dè dặt chớ khinh thường"
Phi thượng thượng căn - Thận vật kinh hứa

Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG CĂN triệt ngộ thiền cơ thì chẳng thể nào nhập được ngay vào chân không mà phần nhiều lại lạc vào trong lối chấp thiên không.  Rồi từ đó bác phá nhân quả, sự tướng tăng lòng ngã mạn, cống cao.  Về điều nầy trong bài CHỨNG ÐẠO CA HUYỀN GIÁC Thiền Sư có dạy:
"Nếu chấp cái không trống rỗng, rồi bác phá nhân quả thì mối ương họa lan tràn"
 Hoát đạt không, Bác nhân quả - Mảng mảng, đãng đãng chiêu ương họa

Thật ra THIỀN TÔNG rất cần phải duy trì và phục hưng cho chúng sanh được độ thoát, an vui, cho vườn hoa Phật giáo được thắm tươi và đầy đủ màu sắc hơn.  Nếu có các bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi ích cho mình và cho người, thật cũng rất đáng nên cúi đầu đảnh lễ.  Nhưng rất tiếc có nhiều kẻ mới vào cửa mầu nhiệm của THIỀN học, liền chuộng ngay những huyền lý cao siêu, vội xem thường các sự: thờ cúng, tu phước, giữ giới, sám hối... Thậm chí đến còn bác phá luôn cả các sự: lễ Phật, niệm Phật, tụng Kinh... cho là hành môn thấp nhỏ, là chấp trước sự tướng... Cảnh trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người đi lạc lối, khiến cho ngay chính những bậc tôn đức bên THIỀN TÔNG trông thấy cũng đem lòng thê lương cho Phật pháp, xót dạ, đau lòng!  Nếu huyễn sắc tức là chân không thì dù cho có tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH... hay hành trì tất cả sự tướng trong đạo pháp cũng đều là chân không.  Bậc liễu đạt tùy niệm ứng dụng tự tại không dính mắc, như trái hồ lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng ngại!  Cho nên các bậc Cổ đức bên THIỀN đã cảnh giác rằng:
"THIỀN TÔNG nếu đi đúng đường lối và phương cách tất mau chứng quả BỒ ÐỀ, còn nếu đi lạc lối, lầm đường thì đọa vào địa ngục mau như tên bắn!"

Các pháp môn cao (như THIỀN) thì phải cần có các bậc THƯỢNG CĂN tu mới được sự lợi ích thiết thật LÀ NHƯ THẾ VẬY.  Còn riêng về môn TỊNH ÐỘ thì ngược lại, vì pháp môn nầy thích ứng với BA CĂN CƠ: 

Bậc THƯỢNG THƯỢNG căn như các Ngài  VĂN THÙ Bồ Tát, PHỔ HIỀN Bồ Tát, MÃ MINH Bồ Tát, LONG THỌ Bồ Tát, TRÍ GIẢ Ðại Sư và các bậc cao đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.  Như trong Kinh HOA NGHIÊM, Ngài THIỆN TÀI đồng tử khi đi tham phỏng ở nơi bậc tri thức đầu tiên là Ngài ÐỨC VÂN Bồ Tát, Ngài ÐỨC VÂN đã đem môn NIỆM PHẬT TAM MUỘI mà truyền dạy.  Ðến lúc cuối cùng, Ngài PHỔ HIỀN Đại Bồ Tát cũng tuyên nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN VƯƠNG, khuyên THIỆN TÀI và Chư Vị Bồ Tát trong Hoa Tạng Hải Hội niệm Phật hồi hướng về CỰC LẠC.  Do đấy, nên nếu bảo rằng niệm PHẬT là pháp môn thấp kém chỉ để cho các hạng tầm thường, ngu dốt tu là quan niệm rất sai lầm vậy.  Ðến như các bậc hạ căn, thì trong quyển TỊNH ÐỘ THÁNH HIỀN LỤC đã có ghi chép các sự tích của những: kẻ ngu muội, dốt nát., kẻ phá giới, phạm trai, kẻ nghèo khổ, tật nguyền... Cho đến các loài điểu thú, nghe hành theo lời người dạy, xưng danh hiệu Phật, biết hồi tâm, sám hối, trì niệm chuyên thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp thọ, tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.  Vì thế cho nên một bậc danh đức xưa đã khen pháp môn Tịnh Độ là:
Bảo phiệt ra khỏi Ta Bà - Huyền môn để thành Phật đạo.
Xuất Ta Bà chi bảo phiệt - Thành Phật đạo chi huyền môn

Và cũng nương theo ý đó, ẤN QUANG Ðại Sư đã có câu đối như sau:
Bỏ đường tắt Tây Phương, chín giới chúng sanh, trên khó thể viên thành quả giác
Lìa cửa mầu Tịnh Độ, mười phương Chư Phật, dưới không toàn độ thoát quần mê    

Còn nếu nói theo Kinh thì:
Pháp môn  niệm Phật quả thật như chiếc lưới báu cực to, có thể vớt hết tất cả các loài cá lớn nhỏ trong Tam Giới, đưa lên bờ Niết Bàn vậy.



NIỆM PHẬT GỒM TỰ LỰC
VÀ THA LỰC

Trừ hai pháp môn TỊNH ÐỘ và MẬT TÔNG ra, các pháp môn khác đều nương vào nơi TỰ LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải thoát.  Còn luận riêng về TỊNH ÐỘ thì pháp môn nầy là một pháp môn gồm nhiếp luôn cả hai sức TỰ LỰC và THA LỰC.  Tự lực là sức trì niệm của riêng mình.  Tha lực là sức nhiếp thọ, hộ niệm trong hiện tại và sự tiếp dẫn, vãng sanh của PHẬT khi lâm chung.  

Có người bảo:

"Tu môn niệm Phật là hèn yếu vì chỉ ỷ lại và tha lực".  



Ðây là một quan niệm cạn cợt, sai lầm.  Bởi vì hành giả tu Tịnh Độ đang khi hành trì thì:


  1. Thân lễ kính PHẬT - Không lễ tạp.
  2. Miệng xưng danh PHẬT - Không xưng tạp.
  3. Ý chuyên tưởng PHẬT - Không tưởng tạp.

Và như vậy tức là nhiếp tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI, vận dụng hết cả Ba Nghiệp THÂN, KHẨU, Ý để hành trì, cố gắng hết sức mình, đó là chứng minh thực tế và hiển nhiên về TỰ LỰC.  Như thế tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn yếu, chỉ ỷ lại vào tha lực?  Cho nên niệm Phật chính là đem hết tự lực của mình để cảm thông với tha lực của Phật, cứu cánh là dung hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào trong môn CHÁNH ỨC NIỆM TAM MUỘI.  Bước đầu tiên đã có sự cảm thông như vậy, thì hành giả sẽ được Phật phóng quang minh thường trụ nơi đảnh đầu nhiếp thọ, hiện tiền được tiêu trừ tội chướng, tai bịnh, phước huệ lần lần tăng và khi mãn phần lại được tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.


Sỡ dĩ người xưa, nay khi đề cập đến môn Tịnh Độ, phần nhiều đều nhấn mạnh về THA LỰC, đó là hàm ý chú trọng sự tiếp độ đến chỗ giải thoát.  Vì sao thế?  Bởi vì nếu không được sức Phật nhiếp thọ, tiếp dẫn, thì đạo lực tầm thường của hành giả không thể nào sanh về cõi Cực Lạc cách đây mười muôn ức Phật độ được.  Dầu cho đạo lực cao siêu của bậc Lục Thông La Hán, cũng chỉ ở phạm vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thuộc thế giới Ta Bà nầy mà thôi.  Hơn nữa, nếu hoặc nghiệp vẫn còn mà không được tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc, bước lên cảnh giới Bất Thối Chuyển, nương vào nơi thắng duyên của cõi ấy mà tiến tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân hồi, không biết bao giờ mới giải thoát được!  Vì sự vãng sanh có điểm rất quan hệ như vậy, nên THA LỰC của Tịnh Độ pháp môn được chú trọng đến rất nhiều, khiến cho những kẻ nông cạn vội nhận lầm rằng pháp môn nầy chỉ ỷ lại vào nơi THA LỰC mà thôi.  Ðến đây, bút giả thấy cần phải nên giải thích thêm vài ba nghi vấn nữa.  Có kẻ hỏi:
- Bậc Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn đã dứt hoặc nghiệp, thoát khỏi luân hồi rồi cần chi phải cầu sanh vè cõi Cực Lạc?
- Các vị ấy đã có Thần Túc Thông có thể đi đến vô lượng thế giới thì cần chi phải niệm Phật để cầu sự tiếp dẫn?

Xin đáp:
Theo Kinh dạy sự cất chân lên, để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng Giác Bồ Tát còn không thể hiểu thấu huống chi hàng Thập Địa Bồ Tát ư!  Các vị ấy tuy đã dứt kiến, tư, trần sa hoặc song vô minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần gũi PHẬT để học đạo pháp thành PHẬT.  Thật ra, Chư Đại Bồ Tát có hai việc:
  1. Trên cầu sanh về mười phương Tịnh Độ để học vô lượng pháp môn của Như Lai.
  2. Dưới hiện thân đến khắp mười phương uế độ để giáo hóa các loài hàm thức.
Pháp Thân của các Ngài là Pháp Thân Thường Trú, tuy ở cõi tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở cõi uế độ nhưng cũng vẫn không rời khỏi tịnh độ.  Còn việc Bồ Tát niệm Phật để cầu tiếp dẫn, thì ví như một người học giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự tại đi vào nhà, nhưng theo lẽ phải xin phép.  Còn vị Thầy thì đúng theo tâm niệm dìu dắt hàng hậu lai của mình, cũng vui vẻ đón tiếp.  Việc như Bồ Tát muốn về Cực Lạc, niệm Hồng Danh của Phật để cần cầu, và Đức Phật tùy bản nguyện đến tiếp dẫn cũng lại như thế.  Sự tiếp dẫn của Phật tùy niệm ứng hiện, trong một sát na có thể đồng thời đến vô biên thế giới ở mười phương, tiếp dẫn số chúng sanh nhiều như vi trần - Việc nầy cũng tựa như gương trăng sáng hiện bóng khắp các ao, biển, sông, hồ, v.v... đâu có tướng đến, đi và đâu có chi nhọc mệt mà phòng ngại.

NIỆM PHẬT GIẢI THOÁT
NGAY TRONG HIỆN KIẾP
Với các pháp môn tu khác, hành giả phải dứt trừ hết các hoặc nghiệp mới vượt qua khỏi được sự sống chết, luân hồi.  Riêng pháp môn Tịnh Độ thì dù cho hoặc chướng hãy còn cũng có thể hiện đời nương nơi nguyện lực của PHẬT, đới nghiệp vãng sanh, tiến thẳng lên bờ giải thoát.  Về điểm nầy, trong bức thư phúc đáp cho TỊNH TU Pháp Sư, Ngài ẤN QUANG đã nói như sau:
"Có hai đường tiến đến chổ giải thoát là THÁNH ÐẠO và VÃNG SANH"

Về THÁNH ÐẠO đây, tức là con đường tu để chứng lên quả THÁNH thì không chi bằng tắt và mau lẹ hơn môn "Trực Chỉ Thiền".  Nhưng tu Thiền giữa thời buổi Mạt Pháp nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ đạo, huống chi là chứng đạo ư?  Nếu như không chứng quả, thì trong mười người tu đã lạc lối hết tám, chín.  Bởi vì khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, dễ mê muội túc căn.  Tu Thiền, nếu chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn gian, nhưng sẽ không lo sợ thối chuyển.  Khi chứng đến quả A La Hán, mới dứt hẳn được nẻo luân hồi.  Ngoài ra thì không nhứt định được.

Có kẻ đời hiện tại tu hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, lại say đắm theo dục lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa ngục.  Dù cho năm, ba đời có giữ được thiện căn, không tạo nghiệp ác đi nữa, song ai có thể bảo đảm ở nơi những kiếp về sau lại chẳng gây tạo nghiệp rồi bị đọa Tam Đồ ư?  Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện tại, có rất nhiều hành giả trước tu hành siêng năng, sau sanh biếng trễ, đạo tâm dần dà thối chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục.  Những đời về sau, theo đà Mạt kiếp, Phật pháp lần lần suy kém, bậc thiện tri thức lại rất khó tìm, sự giải thoát sẽ còn xa hơn nữa!  Riêng có đường lối vãng sanh, tức là niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ, thì dù cho hoặc chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện lực tiếp dẫn của Đức A DI ÐÀ, vượt ngang qua ba cõi, đới nghiệp thẳng sang Cực Lạc.

Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt pháp nầy, người tu Tịnh Độ đến cảnh giới "Sự nhứt tâm bất loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "Lý nhứt tâm" và đi sâu vào "Niệm Phật Tam Muội" được!  Nhưng nếu thuở bình nhựt, chuyên cần trì niệm thì khi lâm chung, chủng tử câu Hồng Danh đã huân tập từ lâu sẽ phát hiện, liền khiến cho tạm thời được nhứt tâm.  Lúc ấy, chỉ cần gia thêm vào ý niệm tha thiết, rủ sạch trần duyên, tâm hướng về Liên Quốc, ắt quyết định sẽ được cảm thông tiếp dẫn.  Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên thì có Phật, Bồ Tát, dưới đến là các hàng Thượng Thiện Nhơn... nước chảy, chim kêu... nói ra Pháp Diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh kế làm vướng bận, sống lâu vô lượng kiếp, lo chi đạo quả không thành.  Pháp Sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy, hiểu của cổ đức và căn cứ nơi Phật lý mà giải đáp.  "XIN SUY GẨM KỸ RỒI TÙY TÂM LỰA CHỌN"

Lời giải đáp trên đây của Ðại Sư đã vạch rõ chỗ ổn đáng cùng khó giải thoát của thời nay, giữa TỊNH và THIỀN vậy.

NIỆM PHẬT HỢP THỜI TIẾT, CƠ DUYÊN
Trong thời Chánh Pháp và Tượng Pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn cảnh sinh hoạt giữa xã hội lại đơn giản nên có thể tu theo các pháp môn về Thánh đạo.  Thời ấy, Thiền Tông đặc biệt hưng thạnh, hành giả căn cơ sáng lẹ... thấy hoa nở, ngắm non xanh, nghe gió thổi, suối reo... đều có thể ngộ đạo.  Nhưng từ thời Mạt Pháp trở đi, nhơn tâm khác xưa, sự sinh hoạt, tổ chức giữa xã hội lần lần trở nên phức tạp, căn cơ người tu đa phần là bậc Trung, Hạ.  Cho nên muốn được bảo đảm sự giải thoát, thì điều cần nhất là phải hướng về pháp hợp với thời tiết, cơ duyên, đó là môn niệm Phật!  Về điều nầy xin dẫn ra những chứng liệu như sau.  Nơi Kinh ÐẠI TẬP NGUYỆT TẠNG, Đức Thích Tôn đã có lời huyền ký rằng:
"Thời Mạt Pháp ức ức kẻ tu hàng, song ít có người đắc đạo.  Chỉ nương theo Pháp Môn Niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi"
Mạt Pháp, ức ức nhơn tu hành, hẳn nhứt đắc đạo.  Duy y niệm Phật, đắc độ sanh tử.

Nơi Kinh VỘ LƯỢNG THỌ, Phật cũng bảo:
"Trong đời tương lai khi Kinh đạo diệt hết, ta dùng sức từ bi, thương xót, riêng lưu trụ Kinh này một trăm.  Chúng sanh nào gặp Kinh này tùy theo sở nguyện có thể đắc độ"
Ðương lai chi thế, Kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi, ai mẫn đặc lưu thử Kinh, chỉ trụ bá tuế.  Kỳ hữu chúng sanh, tri tư Kinh giã, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ
           
Ðức Như Lai là bậc trí huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp môn kia, mà chỉ lưu lại riêng pháp môn Tịnh Độ?  Ðó là thâm ý của Phật đã chỉ rõ rằng:
"Thời Mạt Pháp về sau đường tu hợp với cơ duyên chúng sanh chỉ là môn Tịnh Độ".

Nơi đoạn minh giáo của An Lạc Tập, ĐẠO XƯỚC Thiền Sư có lời bình luận rằng:
"Nếu giáo pháp hợp với thời cơ thì dễ tu dễ ngộ, như giáo pháp trái với thời cơ thì khó tu khó nhập"

Kinh CHÁNH PHÁP NIỆM nói:
"Hành giả khi nhất tâm cầu đạo phải quan sát về phương tiện, thời cơ.  Nếu trái với phương tiện đó, tất bị thất lợi"

Tại sao thế?  Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được vì trái thời, và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng có thể có, vì không trí huệ.  Ðức Như Lai đã phân định Năm Thời Kiên Cố sau khi Ngài nhập diệt, mỗi thời là năm trăm năm.  Trong các thời Chánh Pháp và Thiền Định Kiên Cố thì hành giã nên chọn môn tu Thánh đạo, tu Ðịnh Huệ làm phần chánh, cầu Tịnh Độ làm phụ.  Từ cuối thời Ða Văn Kiên Cố bước sang thời Tháp Tự và Ðấu Tranh Kiên Cố về sau nên lấy Tịnh Độ làm phần chánh, tu Thánh đạo làm phụ.

Ngoài những chứng liệu kể trên, còn có thêm lời huyền ký của bậc chơn tu đắc đạo là THIÊN NHƯ Thiền Sư cùng với những điểm nhận định và biện chứng của các bậc danh đức xưa nay, mà trong phạm vi khái ước nầy không thể nào nêu ra hết được.  Bên Trung Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn đức quan sát rõ thời cơ nên đều chuyển lần từ Thiền Tông trở sang xiển dương Tịnh Độ.  Tuy nhiên lưu hành hưng thịnh từ lâu, đã thành ra phong thái, nên thường hay xảy ra những sự tranh đua cao thấp giữa TỊNH và THIỀN.  Song lẽ đó chỉ là kiến chấp nông nỗi của một số người chưa quán triệt được Phật lý cùng thời cơ mà thôi, còn các bậc cao tăng đã liễu đạt thì chỉ tùy duyên mà hộ trì Chánh Pháp, tuyệt không có tâm niệm phân biệt đây kia.

Cứ trung thật mà luận, thì chúng hữu tình có nhiều tâm bệnh cùng sở nguyện, cho nên riêng một môn Tịnh Độ vẫn không thể nào phổ cập và thích ứng để hoằng dương Chánh Pháp, lợi ích quần sanh hết được, vì vậy mà rất cần sự có mặt của các pháp môn khác.  Theo thiển ý thì trong thời Mạt pháp, hành giã trong các tông khác, tuy là hoằng truyền bản môn, nhưng cũng nên nghiên cứu qua Tịnh Độ Tông và quy hướng về lối vãng sanh để bảo đảm cho sự giải thoát như Chư Tôn đức bên Tông Tào Động, bên ngoài hoằng hóa Thiền Tông, bên trong mật tu Tịnh Độ khi xưa vậy.  Còn người tu Tịnh Độ cũng phải cần học hỏi thêm nơi các tông khác để thêm tiến ích cho đường hành đạo của mình, bởi vì mỗi tông như những đóa hoa khác nhau, đều sáng tươi riêng phần đặc sắc.  Các lời dẫn luận trên đây, bút giã chỉ y theo quan điểm từ mẫn lợi sanh của Phật và chư Cổ đức, nêu ra một đường lối tu tập thích ứng, hợp với thời tiết và cơ duyên mà thôi.

Ngài ẤN QUANG Đại Sư đã đem sự vãng sanh lúc lâm chung của Ngài để chứng minh cho lời nói và các hành động trong buổi bình thời của mình, thì không cần chi phải bình luận thêm nữa.  HƯ VÂN Thượng Nhơn tuy thị hiện ngộ đạo, làm mô phạm hướng dẫn hành giã tu Thiền, song khi gặp hoàn cảnh, cơ duyên cũng vẫn khuyên người niệm Phật.  Như vậy có phải chăng các bậc danh đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật sự, song đã dùng hoặc bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giã nên chú trọng về sự giải thoát, vãng sanh ư?

Phương Liên Tịnh Xứ
Liên Du - Vô Nhất Tăng
Thích Thiền Tâm cẩn chí.


Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật