Âm Hán Việt:
Vân hà niệm Phật trọng ân? Vị ngã Thích Ca Như Lai
tối sơ phát tâm, vị ngã đẳng cố, hành Bồ Tát đạo, kinh vô
lượng kiếp, bị thọ chư khổ. Ngã tạo nghiệp thời, Phật tắc ai
lân, phương tiện giáo hóa, nhi ngã ngu si, bất tri tín thọ. Ngã đọa
địa ngục, Phật phục bi thống, dục đại ngã khổ, nhi ngã nghiệp
trọng, bất năng cứu bạt. Ngã sanh nhân đạo, Phật dĩ phương tiện,
linh chủng thiện căn. Thế thế sanh sanh, tùy trục ư ngã, tâm vô tạm
xả. Phật sơ xuất thế, ngã thượng trầm luân, kim đắc nhân thân,
Phật dĩ diệt độ. Hà tội nhi sanh mạt pháp? Hà phước nhi dự xuất
gia? Hà chướng nhi bất kiến kim thân? Hà hạnh nhi cung phùng Xá
lợi? Như thị tư duy, hướng sử bất chủng thiện căn, hà dĩ đắc
văn Phật pháp! Bất văn Phật pháp, yên tri thường thọ Phật ân!
Thử ân thử đức, khâu sơn nan dụ! Tự phi phát quảng đại tâm,
hành Bồ Tát đạo, kiến lập Phật pháp, cứu độ chúng sanh, túng
sử phấn cốt toái thân, khởi năng thù đáp! Thị vi phát Bồ đề
tâm đệ nhất nhân duyên dã.
Dịch:
Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? Ðức Phật Thích
Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng ta mà tu Bồ tát
đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta
tạo nghiệp, Ðức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu
si, không chịu tin theo. Ta đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn
thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu
vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng
căn lành. Ðời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không
tạm bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế ta còn trầm luân, nay được
thân người Phật đã diệt độ. Tội lỗi gì mà sinh vào thời mạt
pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia,
nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng của Phật, may
mắn nào lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. Suy nghĩ như vậy
mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành thì làm sao
được nghe Phật pháp, không nghe Phật pháp thì làm sao được biết
thường thọ ân đức của Phật. Ân đức này, núi non cũng khó
sánh bằng. Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, xây
dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù cho tan xương
nát thịt cũng không thể đền đáp được. Ðó là nhân duyên thứ
nhất của sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà niệm Phật trọng ân? Nhân duyên thứ
nhất, ở trên đã nói sơ lược về ý nghĩa nhớ ơn sâu nặng của
Phật. Sao gọi là nhớ ơn sâu nặng của Phật ? Dưới đây sẽ trình
bày rõ ràng.
Vị ngã Thích Ca Như Lai tối sơ phát tâm, vị ngã
đẳng cố, hành Bồ Tát đạo: Vị là nói, là những điều
được nói. Nói cái chi ? Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta,
nguyên nhân ban đầu phát Tâm Bồ đề là gì ? Chính là muốn cứu
độ chúng ta là những chúng sanh hiện đời, Ngài mới hành Bồ
tát đạo ; hành Bồ tát đạo chính là muốn lợi người, đời
đời kiếp kiếp đều vì làm lợi ích cho người.
Kinh vô lượng
kiếp, bị thọ chư khổ: trải qua thời gian dài đăng đẳng vô
lượng kiếp, nhiều kiếp đếm khôn xiết, trong thời
gian ba tăng kỳ kiếp tu phước tu huệ, chịu đựng các thứ khổ cực
đắng cay.
Ngã tạo nghiệp thời: khi chúng ta tạo nghiệp,
Phật
tắc ai lân, phương tiện giáo hóa: Ðức Phật thương xót chúng
ta, cho nên Phật muốn thay chúng sanh chịu khổ, Phật muốn đem cái khổ
của chúng sanh làm cái khổ của mình. Ðối với nghiệp mà chúng ta
đã tạo, Phật đều thương xót tha thứ cho chúng ta, Ngài dùng các
thứ phương tiện quyền xảo, thí dụ thuyết minh để giáo hóa chúng
ta, khiến chúng ta sửa ác làm lành, sửa lỗi làm mới cuộc đời,
phát Tâm Bồ đề.
Nhi ngã ngu si, bất tri tín thọ: Phật từ bi
đối với chúng ta như thế, mà chúng ta quá ngu si, rất dại khờ,
không hiểu rõ ân đức của Phật đối với chúng ta, vì thế không
tiếp nhận sự giáo hóa của Ngài.
Ngã đọa địa ngục: Khi ta mới đọa địa ngục,
Phật
phục bi thống, dục đại ngã khổ: Phật nhìn thấy chúng sanh đọa
địa ngục, đau khổ bi thương giống như chính mình đọa địa ngục vậy ;
cho nên Phật nguyện xuống địa ngục để thay chúng ta chịu khổ.
Nhi
ngã nghiệp trọng, bất năng cứu bạt: Nhưng vì nghiệp chướng
của chúng ta quá nặng nề, thậm chí ngay cả Ðức Phật cũng không
cách nào cứu vớt.
Ngã sanh nhân đạo: Ðức Phật dùng đủ cách
cứu chúng ta ra khỏi địa ngục, chúng ta nay lại được sanh vào cõi
người.
Phật dĩ phương tiện, linh chủng thiện căn: Bấy giờ
Phật lại dùng đủ thứ pháp môn phương tiện quyền xảo dạy chúng
ta gieo trồng thiện căn.
Thế thế sanh sanh, tùy trục ư ngã, tâm vô
tạm xả: trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát vì giáo hóa một chúng sanh,
chúng sanh đọa vào địa ngục, Bồ tát cũng theo đó mà vào địa
ngục; chúng sanh vào cõi súc sanh, Bồ tát cũng theo đó mà làm
súc sanh, chúng sanh chuyển vào đường ngạ quỷ, Bồ tát cũng theo
đó mà làm ngạ quỷ, ảnh hưởng Bồ tát phát Tâm Bồ đề, ảnh
hưởng Bồ tát tu hành ; chúng sanh làm người, Bồ tát cũng theo
chúng sanh làm người. Cứ như thế đi theo chúng sanh mà chịu khổ,
theo chúng ta, trong tâm một giờ một khắc cũng không bỏ chúng ta.
Phật sơ xuất thế, ngã thượng trầm luân: Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni khi mới xuất thế, ta còn trầm luân ở địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thượng có nghĩa là vẫn còn.
Kim đắc
nhân thân, Phật dĩ diệt độ: Nay ta nương nhờ oai đức của
Phật được làm người, thì Phật đã vào Niết bàn.
Hà tội nhi sanh mạt pháp? Chúng ta nhất định có
tội rất lớn, nên mới sanh vào thời mạt pháp ; nếu không phải
tội lỗi lớn như thế, thì chúng ta lẽ ra đã được gặp Phật nghe
pháp. Hà phước nhi dự xuất gia? Nhưng nay chúng ta lại được
xuất gia – Bài "Văn phát Tâm Bồ đề" này là nói cho
người xuất gia, cho nên chúng ta cũng rất là có phước. Tuy có
tội nhưng cũng là có phước ; vì có phước, nên hôm nay chúng ta
mới được xuất gia.
Hà chướng nhi bất kiến kim thân? Chúng ta nay nay
có nghiệp chướng gì mà không nhìn thấy thân vàng của Phật ?
Hà
hạnh nhi cung phùng Xá lợi? Chúng ta lại có may mắn nào, ở trong
thời mạt pháp này lại có thể nhìn thấy Xá lợi của Phật.
Như thị tư duy, hướng sử bất chủng thiện căn, hà
dĩ đắc văn Phật pháp! Hướng là xưa kia. Có sự suy nghĩ như
thế này, nếu như xưa kia, trong kiếp quá khứ không gieo trồng căn
lành, ngày nay chúng ta nhất định không thể nghe được Phật pháp.
Bất văn Phật pháp, yên tri thường thọ Phật ân!
Nếu chúng ta không nghe được Phật pháp, không hiểu được Phật
pháp, thì chúng ta cũng không biết được ân đức lớn lao của
Phật đối với chúng ta.
Thử ân thử đức, khâu sơn nan dụ!
Ðức lớn ân sâu của Phật đối với chúng ta, núi cao cũng không
thể sánh nổi ; biển cả cũng không sâu rộng bằng.
Tự phi phát quảng đại tâm, hành Bồ Tát đạo:
Vì ân đức của Phật đối với ta lớn lao như thế, nếu chúng ta
không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo
Kiến lập Phật
pháp, cứu độ chúng sanh: kiến lập Phật pháp, cứu độ chúng
sanh.
Túng sử phấn cốt toái thân, khởi năng thù đáp! Nếu
không hoằng dương Phật pháp, không xây dựng Phật pháp, không hộ
trì Phật pháp, thì dù có tan xương nát thịt cũng không đền đáp
được ân đức của Phật.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ nhất nhân duyên dã :
Vì thế nhân duyên thứ nhất trong mười nhân duyên chính là nhớ
ân sâu của Ðức Phật mà cần phải phát Tâm Bồ đề.
II. NIỆM PHỤ MẪU ÂN
Âm Hán Việt:
Vân hà niệm phụ mẫu ân? Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù
lao, thập nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ; thôi can khứ thấp, yến
khổ thổ cam, tài đắc thành nhân, chỉ vọng thiệu kế môn phong, cung
thừa tế tự. Kim ngã đẳng ký dĩ xuất gia, lạm xưng Thích tử,
thiểm hiệu Sa môn. Cam chỉ bất cung, tế tảo bất cấp, sanh bất năng
dưỡng kỳ khẩu thể, tử bất năng đạo kỳ thần linh. Ư thế gian
tắc vi đại tổn, ư xuất thế hựu vô thật ích, lưỡng đồ ký
thất, trọng tội nan đào. Như thị tư duy, duy hữu bách kiếp thiên
sanh, thường hành Phật đạo, thập phương tam thế, phổ độ chúng
sanh. Tắc bất duy nhất sanh phụ mẫu, nãi chí sanh sanh phụ mẫu, câu
mông bạt tế. Bất duy nhất nhân phụ mẫu, nãi chí nhân nhân phụ
mẫu, tận khả siêu thăng. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ nhị nhân
duyên dã.
Dịch:
Thế nào là nhớ ơn cha mẹ? Thương thay cha mẹ sinh ta
khó nhọc, mười tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm
ướt, nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp
nối gia phong, lo phần tế tự. Mà nay ta đã xuất gia, lạm xưng Thích
tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật ngọt đã không phụng dưỡng,
cúng tế chạp tảo càng không chu tất. Cha mẹ còn sống, ta đã không
thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta lại không thể hướng dẫn
thần thức. Ðối với phương diện thế gian là sự tổn lớn, đối
với phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường đều
tổn thất thì tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ có có cách
trong trăm đời ngàn kiếp thường hành Phật đạo, mười phương ba
đời khắp độ chúng sanh. Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ
một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ
thoát; không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi
người cùng được siêu thăng. Ðó là nhân duyên thứ hai của
sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà niệm phụ mẫu ân? Ở trên đã nhắc qua
về ân đức cha mẹ, nay ở đây giải thích.
Ai ai phụ mẫu, sanh
ngã cù lao: Ðây là nói chúng ta đối với cha mẹ thường có
lòng thương nhớ ; cha mẹ cũng thương nhớ ta, "sanh ta khó
nhọc", đây là câu trong Thi kinh : "Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù
lao…… dục báo chi đức, hạo thiên võng cực". Có nghĩa
là "Thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân đức
của cha mẹ, nhưng ân đức của cha mẹ sâu nặng như trời cao bể
rộng thật khó đáp đền"
Thập
nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ: Nếu nói mười tháng mang thai,
ba năm bú mớm thì không hay, nên nói "mười tháng ba năm, mang
thai bú mớm".
Thôi can khứ thấp: Từ chỗ ướt đưa đến chỗ
khô, chứ không phải đẩy ra khỏi chỗ khô. Ðiều này rất đơn
giản, không có cách giảng đặc biệt nào, người mẹ nuôi đứa con
thơ chính là nhường khô nằm ướt như thế.
Yến khổ thổ cam,
tài đắc thành nhân: Nuốt đắng, chính là có cái gì đắng cay,
có gì khó khăn mẹ đều nuốt lấy, chịu lấy. Nhả ngọt, có gì ngọt
bùi cho con. Tận tâm kiệt lực bồi dưỡng nuôi nấng con thơ như
thế, con thơ mới được lớn lên thành người.
Chỉ vọng thiệu
kế môn phong, cung thừa tế tự: Sanh con dưỡng cái chính là hy
vọng cha truyền con nối, đời nọ nối tiếp đời kia, có người
hương khói, nối dõi tông đường, sau này lo phần cúng tế tổ
tiên. Chỉ vọng, là dùng tay chỉ đầu, dùng mắt nhìn. "Thiệu"
cũng giống như thiệu long Phật chủng, tiếp nối một cách rạng rỡ
dòng giống của Phật, "Thiệu" có nghĩa là tiếp tục kế tục.
Tục là làm cho nó nối tiếp không để gián đoạn. Môn phong, là
phong thái nề nếp gia đình.
Kim ngã đẳng ký dĩ xuất gia, lạm xưng Thích tử:
Nhưng nay chúng ta đã xuất gia, cũng không quản đến việc có đủ tư
cách làm con Phật hay không, lạm vu sung số
(1), nói rằng
: "A! chúng ta đã là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca Mâu
Ni".
Thiểm hiệu Sa môn: Thiểm, là không biết tàm quý,
không biết xấu hổ. Nghĩa là tôi không đủ tư cách, không đáng
làm Sa môn, nhưng tôi cũng mạo sung, lạm vu sung số, cũng được gọi
là Sa môn. Sa môn là Tỳ Khưu, dịch là Cần Tức, có nghĩa là cần
tu giới định huệ, tức diệt tham sân si.
Cam chỉ bất cung, tế tảo bất cấp: Ðối với cha
mẹ, chúng ta không chút dưỡng nuôi, không có đem sức của ta để
phụng dưỡng; đến khi cha mẹ qua đời, cũng không tảo mộ, cũng
không lo phần cúng giỗ.
Sanh bất năng dưỡng kỳ khẩu thể, tử
bất năng đạo kỳ thần linh: Khi cha mẹ còn sống, ta đã không
thể phụng dưỡng. Sau khi cha mẹ qua đời, ta cũng không thể dẫn
đạo tiếp dẫn thần thức của cha mẹ đến nơi an lạc.
Ư thế gian tắc vi đại tổn, ư xuất thế hựu vô thật
ích: Ðối với thế gian pháp, tức là đối với một vài vấn
đề xã hội mà nói, thì đây là một tổn thất lớn. Mà chúng ta
xuất thế cũng tu hành không thành công, nên đối với cha mẹ cũng
không có giúp đỡ gì.
Lưỡng đồ ký thất, trọng tội nan đào: Lưỡng đồ, tức là hai đường sanh tử. Khi cha mẹ còn sống ta
không phụng dưỡng, khi chết rồi cũng không cúng tế ; sau khi xuất
gia lại không quản đến cha mẹ ở nhà, hai phương diện này đều
tổn thất lớn. Cho nên tội này rất lớn, thật khó tránh khỏi.
Như thị tư duy: Suy nghĩ như thế, chúng ta phải nên
làm sao?
Duy hữu bách kiếp thiên sanh, thường hành Phật đạo: Chỉ có cách trong trăm đời ngàn kiếp cần phải tu hành Phật
đạo, thường y theo Phật pháp tu hành.
Thập phương tam thế, phổ
độ chúng sanh: Không chỉ mười phương mà trong ba đời quá
khứ, hiện tại, vị lai, đều phải độ khắp tất cả chúng sanh, mới
có thể báo đáp ân sâu của cha mẹ.
Như thế tắc bất duy nhất
sanh phụ mẫu, nãi chí sanh sanh phụ mẫu, câu mông bạt tế: cha mẹ
đời đời kiếp kiếp đều được độ thoát.
Bất duy nhất nhân
phụ mẫu, nãi chí nhân nhân phụ mẫu, tận khả siêu thăng: Cho
đến cha mẹ của mỗi người đều được sanh thiên. Chúng ta nếu như
tu hành chân chánh "một người con đắc đạo, cửu huyền thất
tổ siêu thăng", cho nên chúng ta cần phải dụng công tu hành, thì
không những cha mẹ đời đời kiếp kiếp trong thời quá khứ, cho
đến song thân của mọi người, chúng ta cũng đều khiến cho họ
được siêu thăng.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ nhị nhân duyên dã:
Ðây là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm Bồ đề.
IV. NIỆM THÍ CHỦ ÂN
Âm Hán Việt:
Vân hà niệm thí chủ ân? Vị ngã đẳng kim giả nhật
dụng sở tư, tịnh phi kỷ hữu. Nhị thời chúc phạn, tứ quý y
thường, tật bệnh sở nhu, thân khẩu sở phí, thử giai xuất tự tha
lực, tương vi ngã dụng. Bỉ tắc kiệt lực cung canh, thượng nan hồ
khẩu, ngã tắc an tọa thọ thực, do bất xứng tâm. Bỉ tắc phưởng
chức bất dĩ, do tự gian nan, ngã ư an phục hữu dư, ninh tri ái tích.
Bỉ tắc tất môn bồng hộ, nhiễu nhương chung thân, ngã tắc quảng vũ
nhàn đình, ưu du tuất tuế. Dĩ bỉ lao nhi cung ngã dật, ư tâm an hồ?
Tương tha lợi nhi nhuận kỷ thân, ư lý thuận hồ? Tự phi bi trí song
vận, phước huệ nhị nghiêm, đàn tín triêm ân, chúng sanh thọ tứ,
tắc lạp mễ thốn ti, thù thường hữu phận, ác báo nan đào. Thị vi
phát Bồ đề tâm đệ tứ nhân duyên dã.
Dịch:
Nhớ ơn thí chủ là thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi
thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của mình. Cơm cháo hai buổi,
quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều
xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng.
Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng, ta ngồi không mà
ăn, vẫn chưa vừa ý. Kẻ dệt đan mãi hoài mà vẫn gian nan cực
khổ, còn ta an nhàn y phục thừa thãi, há không
thương tiếc? Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, còn ta
phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Ðem cái cực nhọc của họ
cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an lòng. Ðem cái lợi ích của
người để cung cấp sự no ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng?
Do đó, phải vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt
phước huệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước, nếu
không thì dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải, vẫn phải có phần
trả nợ. Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà niệm thí chủ ân? Niệm ở đây không
phải là báo đáp mà là không nên quên. Tâm niệm phải luôn nhớ
ân thí chủ đối với chúng ta. Nói như thế nào đây ?
Vị ngã đẳng kim giả: Kim giả, là hiện nay, tức
là nói chúng ta hiện nay.
Nhật dụng sở tư, tịnh phi kỷ hữu:
sở tư, là những thứ vật phẩm cần dùng hằng ngày, không phải
của mình, đều do người khác cúng dường.
Nhị thời chúc phạn,
tứ quý y thường, tật bệnh sở nhu: Sáng ăn cháo, trưa ăn
cơm, quần áo bốn mùa, cùng với những thuốc men khi bệnh tật cần
dùng.
Thân khẩu sở phí, thử giai xuất tự tha lực, tương vi ngã
dụng: những gì mà thân miệng chi dùng, thân phải mặc y phục,
miệng cần ăn cơm, đều do người khác cúng dường để ta sử dụng
tu hành học đạo.
Bỉ tắc kiệt lực cung canh, thượng nan hồ khẩu:
Người nông phu suốt ngày đổ giọt mồ hôi vô cùng cực khổ, có
lúc còn không đủ cơm ăn.
Ngã tắc an tọa thọ thực, do bất
xứng tâm: ta thì không làm gì hết, ngồi không thọ nhận những
món ẩm thực, cơm canh đã được dọn sẵn, còn chọn lựa đồ ăn
thức uống, nói món này dở, món kia không ngon.
Bỉ tắc phưởng chức bất dĩ, do tự gian nan: Vải
mà ta mặc, do người dệt vải suốt ngày đan dệt không thôi, công
việc làm hoài không hết, họ thì gian nan cực khổ mới dệt ra tấm
vải. Ngã ư an phục hữu dư, ninh tri ái tích : còn ta ? thì an
nhàn hưởng dụng, ăn mặc thừa thãi, lại không
biết thương tiếc sự vất vả gian nan của vật chất.
Bỉ tắc tất môn bồng hộ, nhiễu nhương chung thân:
nhà cửa họ ở thì rách nát, vườn cửa đều cũ nát, trong một
đời của họ cũng không được sự an lạc gì.
Ngã tắc quảng
vũ nhàn đình, ưu du tuất tuế : còn chỗ ta ở thì rất rộng rãi,
sân vườn cũng rất lớn, vườn hoa hồ nước, cái gì cũng chuẩn
bị sẵn, cho nên rất thong thả tự tại, năm này qua năm khác, không
cần phải cực khổ, lao nhọc.
Dĩ bỉ lao nhi cung ngã dật, ư tâm an hồ?
Lấy sự
cực khổ của người để cung phụng sự an nhàn hưởng thọ cho ta,
vì thế thử hỏi lại mình có được an lòng chăng?
Tương tha
lợi nhi nhuận kỷ thân, ư lý thuận hồ? Ðem sự lợi ích của
người để làm no ấm thân ta, có hợp lý chăng ? Thì không hợp
lý vậy!
Tự phi bi trí song vận, phước huệ nhị nghiêm: Vậy
thì phải làm như thế nào ? cần phải tu từ bi quán, tu trí huệ
quán. Không những tu phước, mà còn cần phải tu huệ ; tu phước tu
huệ trang nghiêm cả hai thứ, mới có thể trồng phước cho người
thế gian.
Ðàn tín triêm ân, chúng sanh thọ tứ : Trang nghiêm tu
cả hai mặt trí huệ, hồi hướng cho thí chủ thì thí chủ mới có
thể nhờ được ân huệ, chúng sanh cũng nhận được phước của
mình.
Tắc lạp mễ thốn ti, thù thường hữu phận, ác báo nan
đào : Nếu không thì nhận sự cúng dường một hột gạo hoặc
một tấc vải của người, sau này cũng phải trả nợ. Cho nên nói :
Thiện thí nhất lạp mễ, trọng như Tu Di sơn.
Ngật liễu bất tu đạo, phi mao đái giác hoàn.
Dịch :
Thiện thí một hạt gạo, nặng như núi Tu Di
Ăn rồi không tu đạo, đội lông mang sừng trả.
Người xưa nói : "Một bữa cháo một bữa cơm,
thường suy nghĩ chỗ đến không dễ ; nửa sợi tơ sợi chỉ, thường
nhớ công người làm ra vật chất khó khăn". Ðó là điều
chúng ta cần phải biết, cho nên nếu quý vị không tu hành thì "tam
tâm bất liễu thủy nan tiêu", dù uống một ngụm nước của
người cúng dường thì sau này cũng hoàn trả, cho nên nói quả báo
ác khó tránh.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ tứ nhân duyên dã :
Ðây là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm Bồ đề.
V. NIỆM CHÚNG SINH ÂN
Âm Hán Việt:
Vân hà niệm chúng sanh ân? Vị ngã dữ chúng sanh,
tùng khoáng kiếp lai, thế thế sanh sanh, hỗ vi phụ mẫu, bỉ thử hữu
ân. Kim tuy cách thế hôn mê, hỗ bất tương thức. Dĩ lý thôi chi,
khởi vô báo hiệu! Kim chi phi mao đái giác, an tri phi tích vi kỳ tử
hồ? Kim chi nhuyễn động quyên phi, an tri bất tằng vi ngã phụ hồ! Mỗi
kiến ấu ly phụ mẫu, trưởng nhi dung mạo đô vong, hà huống túc thế
thân duyên, kim tắc Trương Vương nan ký. Bỉ kỳ hào hô ư địa ngục
chi hạ, uyển chuyển ư ngạ quỷ chi trung, khổ thống thùy tri, cơ hư an
tố. Ngã tuy bất kiến bất văn, bỉ tất cầu chửng cầu tế. Phi kinh
bất năng trần thử sự, phi Phật bất năng đạo thử ngôn. Bỉ tà
kiến nhân, hà túc dĩ tri thử. Thị cố Bồ Tát quán ư lâu nghị, giai
thị quá khứ phụ mẫu, vị lai chư Phật. Thường tư lợi ích, niệm
báo kỳ ân. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ ngũ nhân duyên dã.
Dịch:
Thế nào là nhớ ơn chúng sanh? Ta cùng với chúng
sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi
làm cha mẹ, kia đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn mê,
không nhớ biết nhau, nhưng lấy lý mà suy ra thì làm sao không đem
sức báo đáp! Ngày nay đội lông mang sừng, nhưng biết đâu kiếp
trước ta không phải là con cái của chúng. Hiện tại là các loài
bò bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là
cha của ta. Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha mẹ thì
lớn lên đã quên hết hình dáng song thân, huống chi cha mẹ con cái
đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay
khó mà nhớ rõ. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ
quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không thấy không nghe,
nhưng họ tất cầu cứu độ. Ngoài Kinh ra nơi đâu bày tỏ được
việc này, không Phật chẳng ai chỉ rõ cảnh ấy. Còn kẻ tà kiến
làm sao có đủ sức mà biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu
kiến thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường nghĩ
cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Ðó là
nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà niệm chúng sanh ân?: Sao gọi là không
quên ân chúng sanh ? chúng sanh thì bao gồm 12 loại chúng sanh : bay,
lặn, động, trực, thai, noãn, thấp, hóa, hữu tưởng, vô tưởng,
hữu sắc, vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Thậm chí ngay cả
các loài muỗi mòng, sâu kiến cũng đều ở trong.
Vị ngã dữ chúng sanh, tùng khoáng kiếp lai: Ta
cùng với 12 loại chúng sanh này, từ vô lượng kiếp cho đến nay.
Thế
thế sanh sanh, hỗ vi phụ mẫu, bỉ thử hữu ân : vì đời đời
kiếp kiếp luân hồi chìm nổi, cho nên thay đổi làm
cha mẹ, thay đổi làm con cái, kia đây đều có ân với nhau.
Kim tuy cách thế hôn mê, hỗ bất tương thức: Nay
tuy cách đời hôn mê mờ mịt, rất hồ đồ, nên
không hiểu rõ, kia đây đều không nhớ biết nhau.
Dĩ lý thôi chi,
khởi vô báo hiệu! Nhưng lấy ý nghĩa này để suy ra, để truy
cầu, thì kia đây nên ra sức đền đáp lẫn nhau. Báo là báo đáp,
hiệu là hiệu lực.
Kim chi phi mao đái giác, an tri phi tích vi kỳ tử hồ?: Nay những loài chúng sanh đội lông mang sừng, nhưng làm sao biết
được ta không phải là con cái kiếp trước của chúng.
Kim chi nhuyễn động quyên phi, an tri bất tằng vi ngã
phụ hồ!: Nay những loài hàm linh bò bay máy chạy, những loài
động vật rất nhỏ bé, ví dụ muỗi mòng, ruồi, là những loài
động vật rất nhỏ có thể bay, những sanh linh nhỏ bé như thế, làm
sao biết được chúng nó đời quá khứ không phải là cha của ta?
Mỗi kiến ấu ly phụ mẫu, trưởng nhi dung mạo đô vong
: thường nhìn thấy những người tuổi còn thơ ấu mà lìa xa cha mẹ,
thì lớn lên đã quên hết dung mạo của song thân.
Hà huống túc
thế thân duyên, kim tắc Trương Vương nan ký : huống chi là cha mẹ
con cái đời trước ? đời trước là họ Trương hay là họ Vương,
ngay nay đã không còn nhớ rõ nữa.
Bỉ kỳ hào hô ư địa ngục chi hạ, uyển chuyển ư ngạ
quỷ chi trung : Họ gào thét ở trong địa ngục, xoay vòng trong ngạ
quỷ, không thoát ra được. Khổ thống thùy tri, cơ hư an tố :
Sự thống khổ của họ ai biết ? Hoặc là được no lòng, hoặc là
vẫn còn nơi đó đói khát tột cùng, thì bảo cho ai biết đây?
Ngã
tuy bất kiến bất văn, bỉ tất cầu chửng cầu tế: Tuy ta không
thấy không nghe, nhưng họ đang ở đó nhất định đang tìm người
cứu giúp tế độ.
Phi kinh bất năng trần thử sự, phi Phật bất
năng đạo thử ngôn: nếu không phải là kinh điển, thì không
thể nói rõ những vấn đề này ; nếu không phải Ðức Phật là
đấng có trí huệ sáng suốt, thì cũng không thể nói ra tiền nhân
hậu quả, nói ra những ý nghĩa rõ ràng đó.
Bỉ tà kiến nhân, hà túc dĩ tri thử: Những
người tà tri tà kiến kia, không tin có nhân có quả, đương nhiên
không biết được điều này!
Thị cố Bồ Tát quán ư lâu nghị,
giai thị quá khứ phụ mẫu, vị lai chư Phật: Lâu nghị tức là
loài sâu kiến. Cho nên Bồ tát ngay cả nhìn sâu kiến, cũng cho chúng
là cha mẹ quá khứ của mình, là chư Phật vị lai.
Thường tư lợi
ích, niệm báo kỳ ân: Thường nghĩ đến những việc lợi ích cho
các loài sâu kiến, đó là muốn báo ân cha mẹ báo ân chư Phật
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ ngũ nhân duyên dã:
Ðó là nhân duyên thứ năm của phát tâm Bồ đề.
VI. NIỆM SANH TỬ KHỔ
Âm Hán Việt:
Vân hà niệm sanh tử khổ? Vị ngã dữ chúng sanh,
tùng khoáng kiếp lai, thường tại sanh tử, vị đắc giải thoát. Nhân
gian thiên thượng, thử giới tha phương, xuất một vạn đoan, thăng
trầm phiến khắc, nga yên nhi thiên, nga yên nhi nhân, nga yên nhi địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ; hắc môn triêu xuất nhi mộ hoàn, thiết
quật tạm ly nhi hựu nhập. Ðăng đao sơn dã, tắc cử thể vô hoàn
phu. Phan kiếm thọ dã, tắc phương thốn giai cát liệt. Nhiệt thiết
bất trừ cơ, thôn chi tắc can trường tận lạn, dương đồng nan liệu
khát, ẩm chi tắc cốt nhục đô mi. Lợi cứ giải chi, tắc đoạn nhi
phục tục; xảo phong xuy chi, tắc tử dĩ hoàn sanh; mãnh hỏa thành
trung, nhẫn thính khiếu hào chi thảm; tiên ngao bàn lý, đãn văn khổ
thống chi thanh; băng đống thủy ngưng, tắc trạng tự thanh liên nhụy
kết; huyết nhục ký liệt, tắc thân như hồng ngẫu hoa khai. Nhất dạ
tử sanh, địa hạ mỗi kinh vạn biến; nhất triêu khổ thống, nhân gian
dĩ quá bách niên. Tần phiền ngục tốt bì lao, thùy tín Diêm ông
giáo giới! Thọ thời tri khổ, tuy hối hận dĩ hà truy; thoát dĩ hoàn
vong, kỳ tác nghiệp dã như cố. Tiên lư xuất huyết, thùy tri ngô
mẫu chi bi; khiên thỉ tựu đồ, yên thức nãi ông chi thống.
Dịch:
Thế nào là nhớ khổ sinh tử? Ta cùng với chúng
sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, cứ ở mãi trong vòng luân hồi
sinh tử, chưa được giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở
trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương khác, ra vào
đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng chốc làm trời, thoáng chốc
làm người, thoáng chốc sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Cửa đen sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước
vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn, vào
rừng kiếm thì tim gan cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói, mà
nuốt vào thì ruột gan cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống
vào thì xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền
lại, gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa
dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm thiết, trên bàn chưng nướng toàn
nghe âm thanh đau khổ thống thiết. Băng tuyết đông lại thì như sen
xanh kết nhụy, máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở. Ở trong địa
ngục, một đêm chết sống thường đến cả vạn lần, một buổi
thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian. Mãi hoài làm cho ngục tốt
mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. Khi thọ
quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp; lúc
thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ.
Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ
mình; lôi con heo đến lò thịt, nào hay đích thị cái đau thương của
cha ta.
Giảng:
Vân hà niệm sanh tử khổ? Thế nào là không quên
cái khổ sanh tử ? Sanh có gì thống khổ ? Khi chết lại có chi đau
khổ ? Chúng ta khi sanh ra, đau khổ như bị ngọn núi ép lại. Khi chết
tứ đại phân lìa, cũng không dễ dàng lìa bỏ cái túi da thúi, cho
nên rất đau khổ. Có người nói sanh như rùa sống thoát xác, chết
như lột da bò, rất là đáng sợ.
Vị ngã dữ chúng sanh: ta và chúng sanh đều có
mối quan hệ lẫn nhau.
Tùng khoáng kiếp lai, thường tại sanh tử:
Khoáng kiếp tức là trước kia rất lâu rất lâu, không biết bao
lâu, chúng ta từ vô lượng kiếp, cứ sanh rồi lại chết, chết rồi
lại sanh ; chết rồi lại sanh, sanh rồi lại chết, sanh sanh tử, tử
tử sanh, cứ mãi tuần hoàn không lúc nào thôi.
Vị đắc giải
thoát; tuy thường muốn giải thoát, nhưng hôm nay muốn tu hành,
ngày mai lại muốn đi chơi, ngày mốt lại muốn ăn, ngày sau nữa chỉ
muốn uống, làm mất đi chánh niệm, đều là tà niệm, không có
niệm đạo tâm, cho nên không được giải thoát.
Nhân gian thiên thượng: Có lúc đến nhân gian
làm người, có lúc lại sanh lên trời. Làm công đức thiện thì
được sanh lên thiên giới, tạo nghiệp tội thì đọa địa ngục. Cho
nên cứ mãi luân chuyển trong lục đạo luân hồi, thường không ra
khỏi.
Thử giới tha phương, xuất một vạn đoan : Cứ như thế,
từ thế giới này đến thế giới khác, thay đổi di dân. Vốn là
người Trung Quốc lại muốn nhập quốc tịch Mỹ, vốn là người Mỹ
lại muốn nhập quốc tịch Trung Quốc. Ðó gọi là ra vào đủ cách,
lên xuống liền liền ; không có đầu, không có mối, có đủ thứ
nhân duyên.
Thăng trầm phiến khắc: xoay chuyển trong vòng sanh
tử, có lúc thì thăng lên như ngồi thang máy lên trời ; có lúc
giáng xuống như ngồi thang máy xuống địa ngục, xuống nhà lao dưới
đất, đây đều là ví dụ, ý nói nhanh như thế!
Nga yên nhi
thiên, nga yên nhi nhân; Thoáng chốc sanh lên trời, thoáng chốc
lại làm người. Nga yên nhi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ:
Thoáng chốc lại đọa địa ngục làm súc sanh hoặc chuyển vào cõi
ngạ quỷ.
Hắc môn triêu xuất nhi mộ hoàn: Ở cửa đen này
– tức là trong cõi địa ngục, sáng sớm mới bước ra, chiều
tối lại trở về.
Thiết quật tạm ly nhi hựu nhập: Thiết
quật, là hang sắt, cũng là ví dụ cho địa ngục, giống như ở trong
hang sắt, không có chỗ để đi. Tuy tạm thời lìa khỏi, nhưng trong
nháy mắt lại bước vào ; đó là vì vẫn tạo nghiệp như cũ cho
nên lại bước vào.
Ðăng đao sơn dã, tắc cử thể vô hoàn phu: Lên núi đao thì toàn thân thịt nát máu chảy, thân thể không còn
mảnh da nguyên vẹn.
Phan kiếm thọ dã, tắc phương thốn giai cát
liệt: Phương thốn, tức là tâm. Vào rừng kiếm thì tâm bị cắt
đứt. Ví dụ bệnh tim, thì cũng giống như đi đến núi đao vậy,
thoát chốc cắt nát con tim.
Nhiệt thiết bất trừ cơ, thôn chi tắc can trường tận
lạn: Ăn sắt nóng cũng không thể no, vì nó là sắt đốt nóng
lên, khi đói bụng ăn nó, tuy ăn nhưng mà gan và ruột đều bị nó
đốt cháy nát.
Dương đồng nan liệu khát, ẩm chi tắc cốt nhục
đô mi: Dương đồng, tức là đồng nung biến thành nước đồng.
Nhìn thấy chỗ đó có nước thì muốn uống, nhưng uống vào thì
không thể đỡ khát, uống vào thì xương tan thịt nát.
Lợi cứ giải chi, tắc đoạn nhi phục tục: Dùng
cưa bén cắt thân, vốn cắt đứt rồi, nhưng vì nghiệp báo, cắt
đứt ra là liền lại. Ðó là nói chúng ta tạo nghiệp, vốn không
muốn làm nữa, nhưng lại làm tiếp như cũ, vì thế lại bị quả báo
cưa xẻ.
Xảo phong xuy chi, tắc tử dĩ hoàn sanh: Ðịa ngục có
một loại gió lạ đó là gió nghiệp của chúng ta, gió lạ này
vừa thổi thì sau khi chết lại sống lại. Sống lại làm gì ? không
phải nói mua một chiếc xe hơi, ở trong một tòa nhà đẹp đẽ, ở
nơi đó hưởng thụ ; mà sống lại để chịu khổ, phải nhận quả
báo, nhận tội. Cho nên nói chết cũng không thể chết, sống cũng
không thể sống.
Mãnh hỏa thành trung, nhẫn thính khiếu hào chi thảm: Trong thành lửa dữ thiêu, tội nhân bị thiêu đốt kêu gào thảm
thiết, kêu trời kêu đất, kêu cha kêu mẹ, rất là tàn nhẫn, rất
là thê thảm. Tiên ngao bàn lý, đãn văn khổ thống chi thanh:
Ðịa ngục có một loại bàn chưng nấu, để tội nhân ở trong bàn
này, ở dưới để lửa thiêu đốt. Ở trong bàn chưng thiêu đốt
này cũng tức là ở trong nồi, chỉ nghe tiếng người ở trong đó
nói : "Ðau quá ! khổ quá !"
Băng đống thủy ngưng, tắc trạng tự thanh liên nhụy
kết: Thanh liên nhụy kết, tức là nụ hoa sen xanh vừa mới nở.
Ðây là nói trong địa ngục băng lạnh, băng vừa đông lại, máu
thịt của tội nhân giống như sen xanh kết nhụy.
Huyết nhục ký
liệt, tắc thân như hồng ngẫu hoa khai: Ðến khi máu thịt rã ra thì
giống như hoa sen đỏ mới nở. Ðây là hình dung, dường như rất
đẹp mắt vậy, nhưng thật ra rất đau khổ.
Nhất dạ tử sanh, địa hạ mỗi kinh vạn biến: Trong
địa ngục một đêm sống rồi lại chết, chết rồi lại sống cả vạn
lần.
Nhất triêu khổ thống, nhân gian dĩ quá bách niên: Vì khi
đau khổ cảm thấy thời gian rất dài. Một ngày đêm trên cõi Tứ
thiên vương là năm trăm năm ở cõi người chúng ta ; một trăm
năm ở cõi người chúng ta là một ngày đêm ở địa ngục. Cho
nên những tội nhân ở trong địa ngục một ngày đêm thì nhân gian
chúng ta đã rất dài lâu, cho nên nói chết sống thường đến vạn
lần.
Tần phiền ngục tốt bì lao: Khiến cho quỷ tốt trong
địa ngục vô cùng mệt nhọc, nói : "Ôi ! Thật là mệt nhọc,
hôm nay công việc quá nhiều, mệt quá !" Ngay cả họ cũng than
phiền mệt nhọc.
Thùy tín Diêm ông giáo giới! Nhưng lại có ai
nghe lời khuyên bảo của Diêm vương?
Thọ thời tri khổ, tuy hối
hận dĩ hà truy: Ðến khi thọ quả báo mới biết đau khổ, biết
hối hận, nhưng đã muộn màng.
Thoát dĩ hoàn vong, kỳ tác nghiệp
dã như cố: mà đến khi thoát khỏi cảnh khổ thì quên ngay cảnh
khổ, vì thế cứ tạo nghiệp như cũ. Chúng ta là điên đảo như
thế, vết thương lành rồi thì quên đi sự đau nhức. Khi chịu khổ
đau thì nói : "Ta cần phải không làm các việc ác, phải làm
các việc lành". Nhưng đến khi thoát khỏi cảnh khổ đau, lại
khởi lên các vọng tưởng không chánh đáng, cứ mãi đi làm các
việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Con người là động vật không có
tông chỉ, không có trí huệ.
Tiên lư xuất huyết, thùy tri ngô mẫu chi bi:
Người a ! mắt thịt phàm phu, không biết tiền nhân hậu quả, cho nên
"ai thuận theo ý ta thì sống, nghịch ta thì chết".
Không cần nói lừa, mà là muỗi mòng, ruồi kiến,
phàm là những loài động vật có máu huyết, đều có mối quan hệ
quyến thuộc với ta, có mối nhân quả không thanh tịnh ở bên trong,
chúng ta không biết, cứ đánh bậy chưởi bạ, chưởi cái này,
mắng cái kia, đánh cái này, đập cái kia. Kỳ thực đều là tương
tàn cốt nhục, mình như kẻ mù nói bừa làm bậy. Cho nên Phật nói
: "Người nam đều là cha của ta, người
nữ đều là mẹ của ta". Ðây là nói người, vậy muốn nói
rộng ra, thì nam tử hoặc cũng là mẹ của ta, hoặc là nữ nhân
cũng có thể là cha của ta. Tại sao lại nói như thế ? Vì cha kiếp
trước của ta, không nhất định thường thường là người nam, mẹ
kiếp trước của ta cũng không nhất định làm người nữ. Ðức
Phật chỉ nói một cách tổng quát, chúng ta nếu muốn làm một bài
văn chi tiết thì cần phải suy rộng ra, bổ sung cho đầy đủ.
Không những người là cha mẹ của ta, mà ngay cả tất
cả các loài bò bay máy chạy, trâu ngựa dê gà heo chó, 12 loại
chúng sanh, đều có mối quan hệ quyến thuộc cốt nhục với ta. Nhưng
vì chúng ta ngược giác hợp trần, nhận không rõ mối quan hệ này,
cho nên rõ ràng là cha của ta mà ta xem như kẻ thù, rành rành là
mẹ của ta, mà ta xem như oan gia. Cho nên tuy là lừa, nhưng ở kiếp
trước là mẹ của ta. Chỉ vì bà tạo nghiệp quá nặng, thác sanh làm
con lừa, vì mình là kẻ phàm phu không biết, nên lấy roi, lấy gậy
đánh, cho rằng nó làm việc không siêng năng thì cần phải đánh.
Nhưng mỗi khi roi đánh vào thân lừa, thì người mẹ kiếp trước
đau lòng khôn xiết, bật lên tiếng khóc nức nở.
Vừa rồi Dương mỗ nói về công án cho các ông nghe, các ông không nên
cho rằng là lời nói vô căn cứ, đây là điều có thể xảy ra !
Heo chó cũng thay nhau làm cha mẹ con cái. Phàm là chúng sanh đều thay
đổi di dân, cùng nhau giao lưu, linh tánh cùng nhau thay đổi, thường
muốn tìm cho mình một ngôi nhà mới để ở. Vì thế :
Xuất mã phúc, nhập lư thai,
Diêm vương điện tiền kỷ độ hồi.
Thủy tùng Ðế thích điện tiền quá,
Hựu đáo Diêm quân oa lý lai.
Dịch:
Ra khỏi bụng ngựa, lại làm thân lừa,
Cung điện Diêm vương nhiều lần đến,
Mới từ điện Ngọc đế qua,
Lại vào trong chảo dầu của Diêm vương.
Vừa mới từ cõi Trời Ðế thích đi qua lại vào
trong chảo dầu của Diêm vương. Cho nên không chỉ chúng ta thích du lịch, mà linh hồn
cũng thích du lịch, cho rằng đây là trò chơi, rất thú vị, có lúc
thì đi đến chỗ bình an, như ở trong khách sạn, có rất nhiều thứ
để hưởng thụ, có nhà vệ sinh, phòng tắm, giường niệm lò xo, ngủ ở trên : "A ! còn sướng hơn nhà mình
nữa". Vì ham hưởng thụ, ăn cũng muốn ăn cho ngon, mùi vị thơm
tho, ở cũng muốn ở chỗ sang trọng danh tiếng ; như thế tham hưởng
thụ thì đi sai đường, ham ăn thức ăn ngon, thì ăn gà vịt cá thịt,
thay đổi cách nấu để ăn cho sướng miệng, ăn rồi thì phải lo trả
nợ. Thiếu tiền của người thì phải trả lại tiền cho người, nợ
thịt của người thì làm sao mà không trả thịt lại ? Cho nên chúng ta
ăn nhiều như thế muốn không trả nợ thì cũng không được. Vì
thế nên đi làm quyến thuộc của heo bò dê để trả nợ. Trước kia nước Mỹ có một người được gọi là
đại vương thịt gà, là người chuyên bán gà rô ti (chính là người chế biến ra món Kentucky
Fries Chicken và là chủ nhân sáng lập những nhà hàng fast food KFC), bạn nghiên cứu kỹ dáng của người ấy thì giống
như một con gà trống già vậy. Một ngày ông ta giết hàng vạn con
gà, nhiềâu vô lượng vô số, tại sao vậy ? Vì không chỉ ông ta ở
kiếp quá khứ bị người ta ăn thịt, mà quyến thuộc của ông cũng
bị ăn thịt rất nhiều, cho nên kiếp này ông làm người ; thì những
người ăn thịt gà, nay lại sanh làm gà bị ông giết ăn thịt. Ðó
là cùng nhau bón phân, nó bón phân cho ông, để ông đi làm gà ;
ông bón phân cho nó, cũng khiến cho nó sau này làm gà, đó là thay
nhau trồng cái nhân lai sanh, trồng cái quả báo kiếp sau. Cho nên bạn nhìn thấy người bán thịt dê, dáng của
ông ta giống như dê vậy, vì kiếp trước bị người ta ăn thịt quá
đau khổ, kiếp này muốn báo thù hận máu, cho nên ông ta làm
người, thì những người ăn thịt dê, lại đi làm dê để trả
nợ. Bạn nhìn thấy cặp mắt của người bán dê rất giống con dê,
không chút gì sai khác ! Người bán thịt dê nhất định giống dê ;
người bán thịt gà thì giống gà ; người bán gà tây thì giống
như gà tây. Ông đi khắp nơi xem xem, người bán cá thì giống cá.
Tôi tuy không ăn những thứ đó, nhưng tôi vừa nhìn thì biết ngay ;
thì ra bán thứ gì, chính là thứ đó chuyển thế báo thù. Cho nên
thế giới này chính là như thế, lưới nghiệp đan dệt, luân hồi
không thôi. Hôm nay đoạn văn này nói rất rõ ràng. Vậy tôi cũng
mượn đoạn văn này vì các ông nói rõ mối quan hệ nhân duyên
quả báo. Người và súc sanh hoặc là cũng cùng nhau xen kẽ,
lưới nghiệp đan dệt, luân hồi không thôi. Hoặc là có người
thương chó. Chó lại thác sanh làm chàng trai anh tuấn, đi tìm người
đời trước ăn thịt mình làm vợ. Ở huyện Lạp Lâm Ðông Bắc của tôi có một người
kết nghĩa anh em với tôi ; bạn xem, anh em kết nghĩa với tôi, người
nào cũng đều có. Kiếp trước anh ta là đào kéo đóng tuồng, làm
nghề minh tinh điện ảnh. Anh ta đóng tuồng, thì hát những loại tuồng
có tính cách văn nhân nho nhã, lúc nào cũng đóng vai tiểu sinh ; vì
thế kiếp này sanh ra rất nho nhã lịch sự. Nhưng vợ của anh thì mập
thù lù, thì ra cô ta chính là con chó cái nhỏ ở kiếp quá khứ
thường theo anh ta khi anh ta đóng tuồng. Vì anh ta rất thương chó, cho
nên khi anh ta thác sanh lại làm người, con chó này bèn đi theo làm
vợ của anh. Nhưng bạn đoán như thế nào ? Một ngày từ sáng đến
tối ầm ầm đùng đùng, giống như con chó con cắn anh ta vậy, suốt
ngày cãi lộn với anh, cãi lộn đến nỗi anh muốn tìm cách thoát
mà thoát không được : "Làm sao đây ? làm sao đây ?". Suốt
ngày cứ nhăn mặt khổ não. Cho nên người diễn tuồng thương con
chó, kiếp sau bèn làm vợ chồng. Nếu là người nữ thì sao ? Hoặc
cũng là người thương chó, nó bèn làm chồng của cô ta, cũng
suốt ngày đánh nhau cãi lộn, hoặc là người chồng kia – là con
chó đực thích tìm một con chó cái khác, cho nên đến khi làm
người, cũng vẫn muốn đi tìm người nữ khác, đó là tranh đoạt
tình cảm, ghen tương đố kỵ, làm cho gia đình náo loạn, không được
an ổn. Bạn xem có đáng thương không ? Tôi chỉ nói đại khái như
thế. Hôm nay ông La nhắc đến việc đoạn trừ ái dục, thật đoạn
trừ ái dục? Nên tôi hỏi ông ta : "Thật vậy chăng ?". Ông
không dám thừa nhận, ấp a ấp úng nói lảng qua chuyện khác, trả
lời qua loa lấy hệ. Ðây chính là người đang đóng tuồng trong lục
đạo luân hồi, ôi, một khi sanh được làm người, thì cảm thấy
không có gì đáng lo nữa, ở đó điên điên đảo đảo, giong ruổi
khắp nơi. Ðánh con lừa ra máu, "thùy tri ngô mẫu chi bi",
"thùy" là người nào. Người đánh con lừa ra máu, lừa
đau thương khôn xiết, khóc la thảm thiết, nhưng mà ai biết được,
lừa này vốn là mẹ kiếp trước của người?
Khiên thỉ tựu
đồ, yên thức nãi ông chi thống : Lấy dây trói con heo, lôi
đến lò thịt, khi heo bị giết vô cùng đau khổ. Nhưng con heo này chính
là cha của người kiếp trước, nhưng người vẫn không biết, vẫn
kéo đi giết : "Mầy ăn mập như thế, giết đi rồi nói chuyện sau
!". Cho nên cha của người kia đau khổ khôn cùng.
Âm Hán Việt:
Thực kỳ tử nhi bất tri, Văn Vương thượng nhĩ; đạm
kỳ thân nhi vị thức, phàm loại giai nhiên. Ðương niên ân ái, kim
tác oán gia; tích nhật khấu cừu, kim thành cốt nhục. Tích vi mẫu nhi
kim vi phụ, cựu thị ông nhi tân tác phu. Túc mạng tri chi, tắc khả tu
khả sỉ. Thiên nhãn thị chi, tắc khả tiếu khả lân. Phẩn uế tùng trung, thập nguyệt bao tàng nan quá; nùng
huyết đạo lý, nhất thời đảo hạ khả lân. Thiếu dã hà tri,
đông tây mạc biện, trưởng nhi hữu thức, tham dục tiện sanh. Tu du
nhi lão bệnh tương tầm, tấn tốc nhi vô thường hựu chí. Phong hỏa
giao tiên, thần thức ư trung hội loạn; tinh huyết ký kiệt, bì nhục
tự ngoại can khô. Vô nhất mao nhi bất bị châm toản, hựu nhất
khiếu nhi giai tùng đao cát. Quy chi tương phanh, kỳ thoát xác dã do dị,
thần chi dục tạ, kỳ khứ thể dã bộ nan.
Dịch:
Ăn thịt con mà không biết, Văn vương mà còn như
thế; ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy. Kiếp
trước thương yêu mà đời nay trở thành oan gia, ngày xưa là giặc
là thù mà ngày nay trở thành ruột thịt. Quá khứ là mẹ mà hiện
tại là vợ, túc thế là cha mà hiện tiền là chồng. Nếu có cái
trí túc mạng biết được nhân quả đời trước thì thật đáng hổ
đáng thẹn, nếu dùng con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả đáng
cười đáng thương. Bị bao bọc trong rừng dơ bẩn mười tháng thì thật
khó chịu, ở chỗ máu mủ mà khi bị dốc xuống thì thật là đáng
thương. Khi nhỏ thì biết chi, đông tây trước sau cũng chẳng phân
biệt rõ, lớn lên hiểu biết, tham lam dục vọng bèn tăng trưởng.
Nhưng khoảnh khắc là già bịnh truy tầm, chốc lát mà vô thường
lại đến. Bấy giờ, gió với lửa giao tranh, tâm thức bấn loạn
trong đó, tinh huyết đã kiệt lực, da thịt teo khô từ ngoài, không
một sợi lông nào mà không như bị chích đốt, không một kẽ huyệt
nào mà không như bị cắt xả. Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của
nó còn dễ; thần thức lúc tàn, sự thoát xác của nó thật là
quá khó.
Giảng:
Thực kỳ tử nhi bất tri : Có người nói Văn
Vương biết trước sự việc, cho nên khi Văn Vương bị nhốt vào trong
ngục, Vua Trụ có ý thử ông ta, xem ông ta có tài tiên đoán không
? Cho nên cho ông ta ăn thịt con của ông; Văn Vương nhìn thấy thịt
bèn ăn như thường. Văn Vương ăn thịt vì không biết đó là thịt
của con mình ; nếu biết là thịt của con mình thì sẽ không ăn đâu.
Có người nói ông ta biết, nhưng cố ý ăn để tỏ ta rằng mình
không biết. Không phải vậy ! Nếu ông biết thì làm sao có thể ăn
được. Cho nên đó cũng là định nghiệp ! Vậy chính vì người không hiểu biết nên làm sai
nhiều việc. Chúng ta không biết, gái thì theo đuổi bạn trai, không
ngờ đến bạn trai đó kiếp trước chính là ông của mình, hoặc là
ông cố nội, tằng tổ phụ, thậm chí là cha của mình, đó đều
không nhất định. Nhưng cô ta nhìn thấy chàng trai trẻ thanh niên anh
tuấn, vội vàng theo đuổi, theo đuổi được rồi, kết quả là điên
đảo ; cho nên đều là làm bừa làm bậy.
Văn Vương thượng nhĩ: Văn Vương là người thông minh trí huệ, là người có thánh
đức mà còn không biết.
Ðạm kỳ thân nhi vị thức, phàm loại
giai nhiên: Vậy thì chúng ta là người phàm phu tục tử, mỗi
ngày ăn thịt ông bà cha mẹ, anh em ruột thịt của ta còn vẫn không
biết ! Người đều như thế, không ai tránh thoát được nhân quả.
Ðương niên ân ái, kim tác oán gia: Trước kia ân
ân ái ái, thương thương yêu yêu, anh anh em em, thương nhau đòi sống
đòi chết, không ngờ kiếp sau biến thành bò, thành ngựa, không
còn thương yêu nữa. Biến thành bò thì ăn thịt của nó ; ăn thịt
của nó, thì nó sân giận suốt đời : "Ðược rồi ! Mầy thật
là thứ chẳng ra gì ! Nay đối với tao không có một chút gì khách
khí, ăn thịt của tao. Tương lai tao nhất định sẽ nhai xương của mầy
!". Cho nên cứ cùng nhau kết oán thù, làm oan gia như thế.
Tích
nhật khấu cừu, kim thành cốt nhục: Trước kia là giặc, là thổ
phỉ, ngày nay biến thành lục thân quyến thuộc, tình thân cốt nhục.
Tích vi mẫu nhi kim vi phụ: Kiếp trước là mẹ,
nhưng kiếp này là vợ của mình. Bạn xem ! chính là thay đổi cái
túi da thúi này, linh hồn vẫn là một, nhưng đã không còn nhận
biết nữa. Cựu thị ông nhi tân tác phu: Quá khứ làm cha, mà
nay làm chồng, cô ta còn không cho là lạ, cảm thấy điều này rất
bình thường, bạn nói, vậy thì có khác gì súc sanh không?
Túc
mạng tri chi: Túc mạng, là nhân quả kiếp trước ; biết được
điều này.
Tắc khả tu khả sỉ: biết được việc này, thật
là đáng hổ đáng thẹn, thì làm sao có thể ngẩng mặt nhìn đời ? Thiên
nhãn thị chi, tắc khả tiếu khả lân: Dùng thiên nhãn để quán
sát thì thật đáng cười đáng thương!
Phẩn uế tùng trung, thập nguyệt bao tàng nan quá :
Ðứa trẻ khi ở trong bụng mẹ, thì như ở trong rừng phân tiểu.
Mười tháng ở trong chỗ dơ bẩn đó cùng chung với máu mủ, rất
khó chịu. Nùng huyết đạo lý, nhất thời đảo hạ khả lân:
Khi đứa trẻ ra đời thì ở trong chỗ máu huyết mà bị dốc xuống.
Cho nên rất là đáng thương!
Thiếu dã hà tri, đông tây mạc biện : Ðứa trẻ
khi mới ra đời có tri thức gì ? Cái gì cũng không biết, phía
đông cũng không biết, phía tây cũng không biết. Hai chữ "Ðông
tây" này, có thể nói là vật chất, cái gì cũng không hiểu.
Trưởng
nhi hữu thức, tham dục tiện sanh : thức là trí giác. Khi lớn
khôn thì có chút trí giác, thì biết cái gì ? không biết nhân quả
báo ứng tuần hoàn, mà biết nam tham nữ ái, nữ thì theo đuổi bạn
trai, nam thì theo đuổi bạn gái. Theo đuổi không được, hai người
có lúc đi đến chỗ cùng chết với nhau, không thể kết hôn được
thì tự sát cho xong!
"Tham dục tiện
sanh" chính là nói cái này ; kỳ thực người đó không
biết, ở trong đó thì thật không có ý nghĩa gì.
Tu du nhi lão bệnh tương tầm: "tu du" chính
là thời gian rất ngắn ngủi ; một đời người bất quá là một
cái chớp mắt. "Nhi lão" là đã già rồi. Già rồi thì da
gà tóc hạt ; lúc đó người nữ dù có đẹp đến đâu cũng
không ai muốn. Vợ của người kia muốn tái giá, bạn nhìn thấy bà
ta già rồi, ôi! không cần đâu ; thậm chí người chồng nếu trẻ
hơn một chút, nhìn thấy vợ mình già hơn mình, cũng muốn tìm người
mới, muốn đi tìm một cô gái trẻ hơn. Bạn tin hay không ? Tin đi !
Thế giới này chính là như thế ! Cho nên nhìn thấu suốt rồi thì
nên sớm buông bỏ, không nên mê mờ nữa!
Tấn tốc nhi vô
thường hựu chí: Rất nhanh thì đã chết rồi. Tấn tốc có nghĩa
là rất nhanh, nhanh như ánh chớp tia lửa. "Hựu chí" là lại
đến.
Phong hỏa giao tiên, thần thức ư trung hội loạn:
Gió vừa thổi, lửa liền bốc cao. Lúc này gió lửa ở trong tứ
đại giao tranh, tứ đại không còn điều hòa nữa. Nếu gió lớn
thì sanh lửa, lửa lớn thì làm cho người nóng sốt đến mấy trăm
độ, mấy ngàn độ, đốt khô héo. Lúc đó mất đi tri giác chân
chánh, không còn lý trí nữa, cái gì cũng không hiểu.
Tinh huyết ký kiệt: người a! lúc đó tinh khí
thần, tinh hết thì chết, cho nên nói việc kết hôn nam nữ chính là
đi tìm cái chết, chính là đi trên con đường đến cõi chết ! Vì
người sợ sống lâu năm nên muốn chết sớm. Cho nên con gái thì
tìm con trai nói : "Anh mau làm cho tôi chết, tôi không muốn sống
nữa", còn con trai cảm thấy mình nên chết thế nào ? Vội vàng
đi tìm cô bạn gái nói : "Em làm tôi chết sớm cho rồi". Cho
nên họ là những nam tham nữ ái, cùng không muốn sống.
Tinh khí thần của người, tinh không còn thì nhất định
phải chết ; khí đoạn rồi thì đương nhiên không thể sống ; thần
nếu không có thì không có tri giác. Chúng ta có trí giác là cái
gì ? Chính là thần có trí giác. Chúng ta sống là vì có khí, có
tinh. Tinh của người là mỗi ngày ăn rất nhiều mới biến thành
một chút ít tinh. Cho nên ông ngày ngày đi tìm, từ sáng đến tối
không đếm xỉa mạng sống, nam thì cho rằng có bạn gái là việc tốt,
rất vui. Thật là điên đảo!
Có người hỏi : "Bạch Thầy ! Thầy không thể nói
như thế. Thầy nói như thế, thế giới này chẳng phải không còn
người sao ?". Ông không có cách khiến cho người trên thế
giới hiểu rõ đạo lý này, ông nói cặn kẽ như rót vào tai, bảo
cho người đó cái này không tốt không tốt, người đó vẫn không
tin tưởng, vẫn đi trên con đường bất hảo này. Ông nói : "Ô
! Ði trên con đường đó thì chỉ có một con đường chết !".
Người đó nói : "Tôi thử xem chết như thế nào ?". Bạn xem,
thật là điên đảo. Cho nên bạn rất khó thức tỉnh anh ta. Bạn nên
ghi nhớ là không nên lo lắng, nói rằng : "A, nếu không ai kết
hôn, nhân loại ở thế gian này sẽ không còn nữa". Bạn không
kết thì ông ta kết, ông ta không kết thì cô kia kết ! bạn không có
cách nào mà đi bảo từng người rằng : "không nên kết hôn,
kết hôn thì sẽ chết đó a !". Người đó bèn nói : "Chết ?
Tôi chưa có chết bao giờ, tôi muốn thử xem ! Tôi chết một lần cho
bạn xem". Thật là không có cách nào cả, cho nên bạn không nên
lo lắng. Như Quả Không đến đây nói : "Giả như mọi người
đều xuất gia, thì xã hội này còn thành xã hội chăng ?". Tôi
nói : "Con có thể kêu họ hoàn tục hết đi". Quả Không nói
: "Con không có cách kêu họ hoàn tục". Tôi nói : "Vậy
con có cách nào khiến họ đều xuất gia ?"
- Nhưng mà con nghĩ như thế.
- Con nghĩ như thế là vọng tưởng !
Rất thật thà, đem hàng ngàn câu hỏi muốn đến hỏi
tôi, trong khoảnh khắc những vấn đề đều bị bác bỏ.
Vì thế các vị ! hôm nay những gì tôi nói với quý
vị là đập nồi dìm thuyền (2), quay lưng về phía thành
mà quyết chiến ; các ông nếu vẫn cứ không hiểu, không buông bỏ
được, vẫn nhìn không thấu suốt, dù cho là Ðức Phật Thích Ca Mâu
Ni cũng hết cách, cũng cứu không được các ông. Nói : "Như
Chúa trời không vui a !". Chúa trời ! Ông ta còn chưa hiểu rõ a
! Nếu phản đối tôi thì ông ta là Chúa trời hồ đồ ; nếu không
phải là Chúa trời hồ đồ, thì tuyệt đối không bao giờ phản
đối tôi. Tinh huyết đã kiệt, giống như một người nào đó đi
buôn lậu trốn thuế, làm sao mà được!
Bì nhục tự ngoại can khô: Tinh khí thần không còn
nữa, da thịt teo khô từ bên ngoài, hóa làm đất nước lửa gió.
Ðịa đại thì trả về đất, thủy đại thì trả về nước, phong đại
thì trả về gió, hỏa đại thì trả về lửa, tứ đại phân tán.
Vô
nhất mao nhi bất bị châm toản: Khi gần chết thì mỗi sợi lông
đau nhức như bị chích đốt. Hựu nhất khiếu nhi giai tùng đao cát: Lúc đó tinh khí thần đã khô, mỗi một kẽ huyệt đều đau nhức
như bị dao cắt.
Quy chi tương phanh, kỳ thoát xác dã do dị: chữ
殼 xác, các ông có người
đọc là 咳, kỳ
thực đọc là 竅 ,
(3) khi
người lấy dầu nấu con rùa, khi rùa còn sống, lột lấy mai cứng
của nó. Rùa bị lột mai vẫn không gọi là khó khăn, nhưng mà đau
đớn vô cùng.
Thần chi dục tạ, kỳ khứ thể dã bộ nan : Dục
tạ là tàn héo, là lúc sắp đi, mà thần thức lúc sắp lìa thân
thể, còn đau khổ hơn rùa bị lột mai nữa. Chữ "nan" này,
chính là đau khổ, còn đau khổ hơn con rùa sống bị lột mai nữa.
Âm Hán Việt:
Tâm vô thường chủ, loại thương cổ nhi xứ xứ bôn
trì, thân vô định hình, tự phòng ốc nhi tần tần thiên tỷ. Ðại
thiên trần điểm, nan cùng vãng phản chi thân, tứ hải ba đào, thục
kế biệt ly chi lệ. Nga nga tích cốt, quá bỉ sùng sơn. Mãng mãng hoành
thi, đa ư đại địa. Hướng sử bất văn Phật ngữ, thử sự thùy
kiến thùy văn! Vị đổ Phật kinh, thử lý yên tri yên giác! Kỳ
hoặc y tiền tham luyến, nhưng cựu si mê; chỉ khủng vạn kiếp thiên
sanh, nhất thác bách thác. Nhân thân nan đắc nhi dị thất, lương
thời dị vãng nhi nan truy. Ðạo lộ minh minh, biệt ly trường cửu, tam
đồ ác báo, hoàn tự thọ chi. Thống bất khả ngôn, thùy đương
tương đại? Hưng ngôn cập thử, năng bất hàn tâm? Thị cố nghi ưng
đoạn sanh tử lưu, xuất ái dục hải; tự tha kiêm tế, bỉ ngạn
đồng đăng. Khoáng kiếp thù huân, tại thử nhất cử. Thị vi phát
Bồ đề tâm đệ lục nhân duyên dã.
Dịch:
Tâm không phải thường trụ nên giống như thương
khách bôn ba giong ruổi mọi nơi, thân không có hình
dáng cố định nên khác nào phòng ốc thường dời đổi. Vi trần
của đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi, nước
đầy trong bốn biển vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất thì
hơn núi cao, thây nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa. Giả sử
không được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được
đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ vẫn tham
luyến như xưa, si mê như cũ, chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một
lần sai lầm là trăm lần sai lầm. Thân người khó được mà dễ
mất, giờ tốt dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ,
biệt ly dài dặc, ác báo tam đồ tự mình phải chịu, thống khổ
không nói hết được, mà ai chịu thay. Trình bày đến đây, há
chẳng lo sợ sao! Cho nên hãy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục,
mình người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác. Từ vô lượng
kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này. Ðó là nhân duyên thứ
sáu của sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Tâm vô thường chủ, loại thương cổ nhi xứ xứ bôn
trì: Tâm của chúng ta không làm chủ được, nếu thật có thể
làm chủ thì sẽ có định, sẽ không vọng tưởng. Vì không có
thường trụ, cho nên giống như những người buôn bán, bôn ba khắp
nơi mua bán. Chữ "cổ" vốn đọc là "giả", nhưng mà
ở đây đọc là "cổ", chính là người bán. Làm thương
cổ, hôm nay ở chỗ này, ngày mai đến chỗ kia, khắp nơi chào hàng,
mua hàng, bôn ba khắp chốn.
Thân vô định hình, tự phòng ốc nhi tần tần thiên
tỷ: Thân của chúng ta không có hình dáng nhất định, đời này
cao hơn một chút, đời sau hoặc là thấp hơn một chút. Nó không
phải là của chúng ta, giống như một căn nhà vậy ; cho nên mới
nói :
"Nhân thân hảo tỷ nhất gian
phòng
Khẩu vi môn hộ nhãn vi song
Tứ chi hảo tỷ phòng tứ trụ
Ðầu phát hảo tượng sơn phòng thảo
Sấn trước hảo thời cần tu bổ
Mạc đãi hoại trước liễu mang"
Dịch :
Thân người như một gian nhà,
Miệng là cửa, mắt là cửa sổ,
Tứ chi như bốn cột nhà,
Tóc như cỏ dại mọc trên tường nhà.
Khi còn tốt đẹp nên siêng tu bổ,
Chớ đợi lúc hư hoại theo đó mà bận rộn với
nó.
"Nhân thân hảo tỷ nhất gian
phòng, khẩu vi môn hộ nhãn vi song": miệng dùng để ăn, giống
như cửa của căn nhà; cặp mắt, lỗ mũi, lỗ tai như cửa sổ, có
thể thông gió; lỗ mũi dưới con mắt giống như lỗ thông hơi, bịt
miệng lại mũi có thể hô hấp. "Tứ chi hảo tỷ phòng tứ
trụ": hai tay hai chân giống như bốn cột nhà.
"Ðầu phát
hảo tượng sơn phòng thảo": tóc của người giống như cỏ
dại mọc trên tường nhà.
"Sấn trước hảo thời cần tu
bổ": thừa lúc nhà còn đang tốt, nên siêng năng tu bổ,
sửa chữa.
"Mạc đãi hoại trước
liễu mang": Chớ nên đợi đến lúc nhà hư rồi, mới lo lắng
không có nhà ở, thì không có ích dụng gì.
Do đây mà thấy, thân của chúng ta giống như căn nhà
vậy, đã là nhà thì bên trong phải có người chủ ; người chủ
vốn là ai ? Chính là tâm. Nhưng tâm này nhu nhược bất tài, không
thể làm chủ, cứ nghe theo những lời của tà ma quỷ quái, cứ mãi
vọng tưởng. Vọng tưởng vừa khởi, thi bị vật bên ngoài lôi kéo
; cho nên tâm này khắp chốn bôn ba, thân thể thì thường thường
thay đổi. Thân cảm thấy cái nhà này ở đủ rồi, già rồi, không
còn muốn căn nhà này nữa, quăng nó đi ; cho nên thường thường
dọn nhà xoay chuyển, từ nhà này dọn đến nhà kia. Có lúc từ
nhà lá nhà tranh dọn đến nhà cao cửa rộng, cho nên mới nói
"thường thường dời đổi". Giống như nhà ở, kiếp này
ở trong nhà này, kiếp sau ở trong nhà kia.
Ðại thiên trần điểm, nan cùng vãng phản chi thân
: Chúng ta đến rồi lại đi, đi rồi lại đến, đi đi đến đến không
biết bao nhiêu lần, nhiều như số vi trần của đại thiên thế giới
cũng khó sánh nỗi thân luân hồi!
Tứ hải ba đào, thục kế
biệt ly chi lệ : Nước trong bốn biển nhiều như thế, e rằng cũng
không sánh bằng nước mắt của chúng ta khóc khi bi hoan ly hợp.
Nga nga tích cốt, quá bỉ sùng sơn : Nga nga là rất
nhiều rất nhiều. Xương cốt mà chúng ta tích chứa trong những kiếp
sanh tử, còn cao hơn núi.
Mãng mãng hoành thi, đa ư đại địa :
Mãng mãng cũng có nghĩa là rất nhiều, nhiều như cây cỏ. Nếu tính
thì thây chết của chúng ta còn nhiều hơn đất của đại địa.
Hướng sử bất văn Phật ngữ, thử sự thùy kiến
thùy văn! Hướng là giả thiết, giả như không nghe được lời
dạy của Phật thì đạo lý này ai hay ai biết ? Ai có thể nhìn thấy ?
Ai có thể nghe thấy ? Sẽ không có !
Vị đổ Phật kinh, thử lý yên tri yên giác! Nếu
không đọc được những ý nghĩa ở trong kinh; thì lý luận này
ông làm sao biết được ? ông làm sao có thể giác ngộ được ?
Kỳ hoặc y tiền tham luyến, nhưng cựu si mê : Nếu
ông vẫn y như cũ tham luyến cái túi da thúi này, vẫn không rõ
đạo lý này, thì:
Chỉ khủng vạn kiếp thiên sanh, nhất thác bách
thác: e rằng một lần sai lầm thì cả trăm lần đều sai lầm.
Nhân thân nan đắc nhi dị thất: Thân người không
dễ dàng mà được, chúng ta nay đã được thân người, không nên
bỏ lỡ ! nếu không rất dễ dàng mất đi.
Lương thời dị vãng nhi
nan truy : Giờ tốt tức là thời thanh niên, cũng rất dễ dàng
trôi qua, muốn kéo trở lại cũng không kéo được.
Ðạo lộ minh minh, biệt ly trường cửu : minh minh là
nhìn không thấy vật gì. Ở trên con đường tối tăm mờ mịt, biệt
ly dài dặc. Tam đồ ác báo, hoàn tự thọ chi: Ông trồng nhân
ác thì chịu quả báo ác trong tam đồ địa ngục, ngã quỷ, súc sanh.
Thống bất khả ngôn, thùy đương tương đại? Thật
là vô cùng đau khổ ! Ai có thể thay thế ta chịu cái quả báo này ? Hưng
ngôn cập thử, năng bất hàn tâm? Ta nay nói đến chỗ này, ông
không lo sợ sao ?
Thị cố nghi ưng đoạn sanh tử lưu, xuất ái dục hải: Vì thế ông nên vội lo tu hành, liễu thoát sanh tử, vượt ra ngoài
biển khổ ái tình và dục niệm.
Tự tha kiêm tế, bỉ ngạn đồng
đăng : không những mình lìa khổ được vui, mà người khác
cũng lìa khổ được vui, đều được cứu độ, cùng đến bờ bên
kia, không sanh không diệt.
Khoáng kiếp thù huân, tại thử nhất cử: Từ
vô lượng kiếp xa xưa cho đến nay, ông lập được một đại công
chính là ở chỗ này ; chính là việc này – liễu thoát sanh tử.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ lục nhân duyên dã:
Ðây là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm Bồ đề.
VII. TÔN TRỌNG KỶ LINH
Âm Hán Việt:
Vân hà tôn trọng kỷ linh? Vị ngã hiện tiền nhất
tâm, trực hạ dữ Thích ca Như Lai vô nhị vô biệt. Vân hà Thế Tôn
vô lượng kiếp lai, tảo thành Chánh giác, nhi ngã đẳng, hôn mê
điên đảo, thượng tố phàm phu? Hựu Phật Thế Tôn, tắc cụ hữu
vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm; nhi ngã
đẳng, tắc đãn hữu vô lượng nghiệp hệ, phiền não, sanh tử
triền phược? Tâm tánh thị nhất, mê ngộ thiên uyên. Tĩnh ngôn tư
chi, khởi bất khả sỉ! Thí như vô giá bảo châu, một tại ứ nê,
thị đồng ngõa lịch, bất gia ái trọng, thị cố nghi ưng dĩ vô lượng
thiện pháp, đối trị phiền não. Tu đức hữu công, tắc tánh đức
phương hiển; như châu bị trạc, huyền tại cao tràng, đỗng đạt quang
minh, ánh tế nhất thiết. Khả vị bất cô Phật hóa, bất phụ kỷ linh.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thất nhân duyên dã.
Dịch:
Thế nào là trọng linh tánh của mình? Tâm hiện tiền
của chúng ta cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác.
Vậy mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đã sớm thành chánh
giác, còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn mê điên đảo. Lại
nữa Ðức Phật Thế Tôn thì có vô lượng thần thông, trí huệ,
công đức trang nghiêm, còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng
phiền não, sinh tử buộc ràng. Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên
cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Ví
như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ mà xem như ngói gạch, không
chút thương tiếc quí trọng. Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp
mà đối trị vô biên phiền não. Tu đức có công, thì tánh đức
mới lộ. Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa, treo trên phướn
cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không
uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của mình. Ðó
là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà tôn trọng kỷ linh? Thế nào gọi là tôn
trọng tánh linh của mình ? Kỷ linh cũng chính là Phật tánh ; Phật
tánh cũng chính là tánh linh của chúng ta, Phật và chúng sanh không
sai khác. Vậy tại sao Phật có trí huệ lớn như thế, mà chúng ta
vẫn còn là ngu si mê muội như thế ? Chính vì Ðức Phật tu đức có
công, cho nên tánh đức mới hiển lộ ra ; đức hạnh tu hành thành
tựu rồi thì trí huệ bổn tánh sẽ hiện ra. Nếu không mài giũa, tu
sửa, bổn tánh tuy có nhưng sẽ không hiện ra. Như cái bàn này, vốn
là từ cái cây làm ra; sau khi cây lớn lên, cưa xẻ nó thành
miếng gỗ rồi làm thành cái bàn, làm một món đồ có thể sử
dụng. Nhưng khi nó còn ở trên cây, ông không thể lấy cái cây cho
là cái bàn, chỉ có thể nói nó là cái cây. Cái cây có thể
làm đủ thứ dụng cụng, các thứ vật liệu, nhưng nếu ông không
biết dùng, chỉ có thể dùng nó làm củi đốt; nếu biết dùng thì
có thể chế tạo các thứ gia cụ ích dụng, muốn chế tạo thứ gì
cũng được. Tánh linh của ta cũng vậy, nếu chúng ta biết dùng thì
trí huệ sáng suốt sẽ hiện ra ; nếu không biết dùng, thì giống như
cây đang ở đó, sau này người không nhận thức, chỉ có thể dùng
nó làm củi đốt – sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh.
Phật giáo chúng ta sở dĩ khác với các Tôn giáo
khác, là vì thần của các Tôn giáo này thì con người không thể
đạt đến ; chỉ có Phật giáo, Phật là một đấng có đại trí huệ,
Ngài dạy chúng ta mỗi người khai mở trí huệ, đều có thể thành
Phật.
Thành Phật thì như thế nào ? chính là không tranh,
không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng
ngưõ. Hỏi : "Ðơn giản như thế sao ?".
Ðúng, đơn giản như
thế ! Nếu ông thực hành được sáu đại tông chỉ thì sẽ thành
Phật, chỉ sợ rằng ông không làm được. Nói tôi không tranh !
nhưng khi sự việc đến vẫn tranh như cũ ; nói tôi không tham, nhưng
đến khi gặp lúc hơn thiệt vẫn là tham ; nói tôi không cầu, nhưng
đến lúc cần thiết vẫn phải cầu ; nói tôi không ích kỷ, nhưng khi
cảnh đến, có rất nhiều chỗ quan trọng, vẫn không buông bỏ
được, nhìn không thấu suốt, vẫn là tự tư ích kỷ; nói không
tự lợi nhưng vẫn là tự lợi ; lại thêm vọng ngữ ! Vọng ngữ
này không cần học mà mỗi người đều biết. Như một người nào
đó, bạn nói người đó vọng ngữ, người đó bèn nói, đây là
lời phương tiện, phải cần nói như thế ! Bạn xem có cách gì chăng
? Vọng ngữ, họ cho rằng là phương tiện ngữ, phương tiện ngữ họ
cho rằng phải nên như thế.
Vậy thì sáu đại tông chỉ này, nếu mà triệt để
nhận thức, triệt để theo đó mà làm, tuy không thể nói lập tức
thành Phật, nhưng ngày thành Phật không xa.
Vậy thì tôn trọng tánh linh của mình như thế nào ?
Chính là cần phải tôn trọng Phật tánh của mình, không nên lãng
phí chà đạp nó. Không nên đem món đồ quý giá có thể làm bàn
thờ Phật mà làm củi đốt, thì một chút giá trị cũng không có.
Cho nên nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề chính là
cần phải tôn trọng tánh linh của mình, không nên xem thường mình,
cần phải tôn trọng trí huệ của mình.
Vị ngã hiện tiền nhất tâm: tánh linh của mình,
cũng tức là tâm của ông. Một niệm tâm này, không phải là tâm
quá khứ, cũng không phải là tâm vị lai, mà là một niệm tâm
hiện tiền. Trực hạ dữ Thích ca Như Lai vô nhị vô biệt:
Trực hạ, vốn nên nói là trực thượng. Trực hạ là từ nơi
Phật đến chỗ chúng ta ; từ chỗ chúng ta nên nói là trực
thượng. Trực thượng cùng với Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni không
có sai khác, Ðức Phật đã dùng tánh linh của Ngài, dùng tâm của
Ngài thành tựu Phật quả ; chúng ta cũng nên dùng tánh linh của
mình, dùng tâm của mình thành Phật. Vì thế tâm của chúng ta và
Phật không sai không khác, không có gì khác biệt.
Vân hà Thế Tôn vô lượng kiếp lai, tảo thành Chánh
giác : Ðã là như thế tại sao Ðức Phật từ vô lượng kiếp
đã sớm thành Phật ? "Chánh giác" cũng tức là Phật.
Nhi
ngã đẳng, hôn mê điên đảo, thượng tố phàm phu? Mà chúng ta
vẫn còn ở đây hôn mê điên đảo, không có giác ngộ. Tại sao
chúng ta chưa thành Phật vẫn còn làm phàm phu?
Hựu Phật Thế Tôn : lại nữa Ðức Phật Thế Tôn.
Tắc cụ hữu vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang
nghiêm Ðức Phật có Tam thân Tứ trí, Ngũ nhãn Lục thông. Tam
thân là Pháp thân, hóa thân, báo thân. Tứ trí là bốn loại trí
huệ : Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác trí,
Ðại viên cảnh trí. Ngũ nhãn là Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn,
Thiên nhãn, Nhục nhãn. Sáu loại thần thông : Thiên nhãn thông,
Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông, Thần
túc thông. Ðức Phật có Ngũ nhãn Lục thông, Thiên nhãn thông thì
có thể nhìn thấy biết tất cả mọi động tác của trời người.
Thiên nhĩ thông thì có thể nghe rõ tiếng của người trời. Tha tâm
thông chính là giữa đôi bên, tâm của mình có động niệm gì,
không cần nói ra, Ngài cũng biết được chúng ta đang nghĩ gì. Túc
mạng thông chính là kiếp trước chúng ta là bò, là ngựa, là
người, làm heo, Ngài vừa nhìn liền biết ; thậm chí kiếp trước
kiếp trước, đời đời kiếp kiếp về trước, bao nhiêu kiếp làm
người, bao nhiêu kiếp làm ngựa, bao nhiêu đời làm lừa, bao nhiêu
đời làm phi cầm, bao nhiêu kiếp làm kiến, bao nhiêu kiếp làm muỗi
mòng Ngài đều biết hết. Ðức Phật làm sao có được thần thông
trí huệ như thế ? Vì Ngài công đức trang nghiêm, công đức viên
mãn. Trang nghiêm có nghĩa là muôn vạn đức hạnh trang nghiêm thân
mình.
Nhi ngã đẳng, tắc đãn hữu vô lượng nghiệp hệ,
phiền não, sanh tử triền phược? Mà chúng ta vẫn còn ở đây
bị nghiệp chướng buộc ràng, phiền lụy, lại có rất nhiều phiền
não. Sanh rồi là chết, chết rồi lại sanh, bị trói buộc trong vòng
luân hồi sanh tử, không thể nào được giải thoát, không được
tự do.
Tâm tánh thị nhất, mê ngộ thiên uyên: Tâm tánh
của chúng ta – tâm của Phật và tâm của chúng ta là một, tánh
linh của Phật và tánh linh của chúng ta là một ; nhưng vì Ðức Phật
biết sử dụng, nên Ngài đã giác ngộ ; mà chúng ta vẫn còn mê
muội ! cho nên nói cách xa một trời một vực. "Uyên" không
phải là đất mà là vực sâu, chỗ sâu có nước, thậm chí ở
phía dưới mặt đất.
Tĩnh ngôn tư chi, khởi bất khả sỉ!
"Tư chi" là suy nghĩ về việc đó. Ðầu óc của chúng ta cần
phải tỉnh táo, nghiên cứu về vấn đề này, há không hổ thẹn sao ?
Ðức Phật đã thành Phật, mở đại trí huệ, mà chúng ta vẫn còn
ngu si điên đảo như thế, thật không đáng là bậc đại trượng phu,
đại anh hùng, đại hào kiệt, cho nên chúng ta rất đáng hổ thẹn.
Thí như vô giá bảo châu, một tại ứ nê: Linh
tánh của chúng ta giống như hạt bảo châu vô giá, vùi dưới bùn
nhơ. Ứ nê, tức là bùn nhơ, bùn đen, thứ không có giá trị.
Thị
đồng ngõa lịch, bất gia ái trọng : không thương tiếc quý trọng
tánh linh của mình, xem như ngói vụn gạch nát.
Thị cố nghi ưng dĩ vô lượng thiện pháp, đối trị
phiền não : Cho nên cần phải dùng vô lượng thiện pháp để
đối trị với vô biên phiền não. Nếu công đức thiện lành viên
mãn thì sẽ được sanh lên thiên giới ; tội lỗi sai lầm tích chứa
quá nhiều thì sẽ đọa địa ngục, vì thế chúng ta cần phải các
việc ác không làm, làm các việc lành ; cũng tức là tu vô
lượng thiện pháp, có công đức rồi thì tự nhiên phiền não
không còn.
Tu đức hữu công, tắc tánh đức phương hiển : tu
hành vun bồi đức hạnh, nếu có chỗ thành tựu thì linh tánh, đức
hạnh của ta sẽ lộ ra ngoài, hiện ra trí huệ.
Như châu bị trạc,
huyền tại cao tràng : giống như hạt châu vùi trong đất bùn, ông
chùi rửa nó sạch sẽ, treo trên đầu ngọn phướn cao.
Ðỗng đạt
quang minh, ánh tế nhất thiết : thì nó sẽ chiếu sáng bốn phương,
chói lấp tất cả ánh sáng khác.
Khả vị bất cô Phật hóa, bất
phụ kỷ linh : Làm được như thế có thể nói rằng không phụ
sự giáo hóa của Phật, cũng không phụ tánh linh của mình.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thất nhân duyên dã :
Ðây là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề, tức là
tôn trọng tánh linh của mình, không nên lãng phí tánh linh của mình.
VIII. SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG
Âm Hán Việt:
Vân hà sám hối nghiệp chướng? Kinh ngôn: "Phạm
nhất kiết la, như Tứ thiên vương thọ ngũ bách tuế đọa nê lê
trung". Kiết la tiểu tội, thượng hoạch thử báo, hà huống trọng
tội, kỳ báo nan ngôn. Kim ngã đẳng nhật dụng chi trung, nhất cử
nhất động, hằng vi giới luật, nhất xan nhất thủy, tần phạm thi la.
Nhất nhật sở phạm diệc ưng vô lượng, hà huống chung thân lịch
kiếp? Sở khởi chi tội, cánh bất khả ngôn hỹ! Thả dĩ ngũ giới
ngôn chi, thập nhân cửu phạm, thiểu lộ đa tàng. Ngũ giới danh vi
Ưu bà tắc giới, thượng bất cụ túc, hà huống Sa di, Tỳ kheo, Bồ
tát đẳng giới, hựu bất tất ngôn hỹ!
Dịch:
Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Kinh dạy:
"Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm
tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả
báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. Nay chúng
ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật,
lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi đã
phạm, cũng đã vô lượng, huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội
lỗi đã phạm khó mà nói hết. Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì
mười người đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà che giấu lại nhiều. Ngũ giới là giới của Ưu bà
tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ, huống chi các giới Sa di, Tỳ
kheo, Bồ tát, thì không cần nói đến vậy.
Giảng:
Vân hà sám hối nghiệp chướng? Sám là "sám
kỳ tiền khiên", ăn năn lỗi đã qua; hối là "hối kỳ hậu
quá", chừa bỏ lỗi sau này. Những lỗi đã phạm trước kia và
chưa phạm sau này, đều phải sám hối. Sức mạnh của sự sám hối
thì bất khả tư nghì.
Kinh ngôn: "Phạm nhất kiết la, như Tứ thiên vương
thọ ngũ bách tuế đọa nê lê trung": Kinh nói : Phạm một
tội kiết la, tức là đột kiết la, gọi là khinh cấu tội, cũng tức
là một pháp ô nhiễm rất nhỏ. Phạm tội này, giống như tuổi thọ
của Tứ đại thiên vương vậy, sau năm trăm năm mới có thể trả
hết tội này, phải ở trong địa ngục năm trăm năm.
Kiết la tiểu tội, thượng hoạch thử báo : Ðột
kiết la vốn là khinh cấu tội, là một tội nhẹ, mà còn có quả
báo như thế. Hà huống trọng tội, kỳ báo nan ngôn : Huống chi
là phạm các tội lớn ? Như phạm bốn trọng tội, tăng tàn v.v…
thì càng không biết phải thọ quả báo bao lâu.
Kim ngã đẳng nhật dụng chi trung : Nay chúng ta là
người xuất gia trong mỗi ngày, trong sự sử dụng hằng ngày, nhất
cử nhất động, hằng vi giới luật : hoặc là mỗi cử chỉ mỗi
động tác, hoặc là một lời nói một hành vi, đi đứng nằm ngồi
bốn oai nghi thường vi phạm giới luật.
Nhất xan nhất thủy, tần
phạm thi la : Hoặc là một bữa cơm, hoặc là một hớp nước
đều không hợp với giới luật.
Nhất nhật sở phạm diệc ưng vô lượng : Những
tội lỗi đã phạm trong mỗi ngày cũng nhiều vô lượng vô biên.
Hà
huống chung thân lịch kiếp? Sở khởi chi tội, cánh bất khả ngôn
hỹ! Hà huống tội lỗi đã phạm trong một đời thì càng nhiều
hơn ; mà trong thời gian lâu dài, tội nghiệp đã tạo trong nhiều
đời nhiều kiếp thì càng không biết bao nhiêu nữa !
Thả dĩ ngũ giới ngôn chi, thập nhân cửu phạm,
thiểu lộ đa tàng : Cứ lấy ngũ giới mà nói, mười người
thọ đã có chín người phạm, nhưng rất ít người phát lồ,
tức là phạm giới cũng không phát lồ sám hối. Ða tàng tức là
giấu giếm trong tâm, cho rằng mọi người không biết thì mình không
có phạm giới.
Ngũ giới danh vi ưu bà tắc giới, thượng bất
cụ túc : Ngũ giới là giới của người tại gia – Ưu bà
tắc (Cận sự nam), Ưu bà di (Cận sự nữ), mà còn không thể giữ
gìn đầy đủ. Sự phạm giới này cũng bao gồm người xuất gia ;
người xuất gia cũng thường phạm các tội trong ngũ giới, không
viên mãn. Bất cụ túc chính là không viên mãn.
Hà huống Sa di,
Tỳ kheo, Bồ Tát đẳng giới, hựu bất tất ngôn hỹ! Huống chi
là mười giới của Sa di, 250 giới của Tỳ kheo, 48 giới khinh 10
giới trọng của Bồ tát v.v… ? Càng không cần nói đến, nhất
định phạm rất nhiều.
Âm Hán Việt:
Vấn kỳ danh, tắc viết: "Ngã Tỷ kheo dã!" Vấn
kỳ thật, tắc thượng bất túc vi Ưu bà tắc dã. Khởi bất khả
quý tai! Ðương tri Phật giới bất thọ tắc dĩ, thọ tắc bất khả
hủy phạm. Bất phạm tắc dĩ, phạm tắc chung tất đọa lạc. Nhược phi
tự mẫn mẫn tha, tự thương thương tha, thân khẩu tịnh thiết, thanh
lệ câu hạ, phổ dữ chúng sanh cầu ai sám hối, tắc thiên sanh vạn
kiếp ác báo nan đào. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ bát nhân duyên
dã.
Dịch:
Hỏi cái tên thì nói "Tôi là Tỳ kheo", hỏi
cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không
xấu hổ sao! Phải biết, giới luật của Phật không thọ thì thôi,
thọ thì không được hủy phạm, vì không phạm thì thôi, phạm thì
cuối cùng nhất định bị đọa lạc. Trừ phi cảm thương thân mình,
thân người, lại xót xa cho mình và kẻ khác, thân và khẩu cùng tha
thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám
hối, nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó
tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ
đề.
Giảng:
Vấn kỳ danh, tắc viết: "Ngã tỷ kheo dã!":
Nếu hỏi người xuất gia : "Gọi là gì ?", người đó bèn
trả lời "Tôi là Tỳ kheo". Tỳ kheo có ba nghĩa là khất sĩ,
bố ma, phá ác.
1. Khất sĩ : Trên xin pháp của chư Phật, dưới khất
thực chúng sanh.
2. Bố ma : Người xuất gia sau khi thọ giới Tỳ kheo,
Hòa thượng Giáo thọ, Yết ma sẽ hỏi : "Ông có phải là
trượng phu chăng ?"
Trả lời :
- Là trượng phu.
Lúc đó cung điện của thiên ma trên
cõi trời chấn động, ma vương lo lắng sợ sệt. Ma vương nghĩ rằng :
- Ai da! Nay quyến thuộc của Thích Ca lai tăng thêm mà
quyến thuộc của ta lại giảm đi.
Do ma vương lo sợ, nên gọi là Bố ma.
3. Phá ác : Tức là phá phiền não ác, phá ác tham
sân si.
Vấn kỳ thật, tắc thượng bất túc vi ưu bà tắc dã
: Nếu chân thật mà hỏi, thì thậm chí cũng không bằng Ưu bà tắc,
Ưu bà di là những người tại gia. Chính là có hạng người xuất
gia như thế ; nhưng người xuất gia cũng có vị giới hạnh thanh cao,
đáng làm thầy trời người. Cho nên ở đây cũng không thể quơ
đũa cả nắm, không thể gộp chung lại mà xét được, ông không
thể nói :
- Ô, tất cả người xuất gia đều không bằng người
tại gia.
Không thể nói như thế.
Khởi bất khả quý tai! Thân là người xuất gia
mà không bằng kẻ tại gia thì nên sanh lòng tàm quý xấu hổ.
Ðương tri Phật giới bất thọ tắc dĩ, thọ tắc bất
khả hủy phạm: Kinh Bồ Tát Giới nói: "Chúng sanh thọ Phật
giới, tức nhập chư Phật vị, vị đồng đại giác dĩ, chân thị chư
Phật tử", chúng sanh thọ
giới của Phật, có thể tinh tấn tu hành, đến khi giác ngộ rồi, thì
có tư cách thành Phật; cũng khai ngộ như nhau, đó chính là con của
Phật. (Lời giảng của HT trong Kinh Lăng Nghiêm) Ðã
thọ giới luật của Phật thì phải giữ gìn giới luật, cho nên nói
không thể phạm giới.
Bất phạm tắc dĩ, phạm tắc chung tất đọa
lạc : Tại sao không thể phạm giới ? Ông không phạm giới đương
nhiên không có vấn đề gì ; nếu phạm thì tương lai nhất định sẽ
bị đọa lạc.
Nhược phi tự mẫn mẫn tha, tự thương thương tha:
Trừ phi cảm thương thân mình, cũng cảm thương kẻ khác, xót xa cho
mình và cũng xót xa cho kẻ khác. Vì thế lúc này, cần phải:
Thân
khẩu tịnh thiết, thanh lệ câu hạ, phổ dữ chúng sanh cầu ai sám hối: thân khẩu ý đều phải chuyên nhất tha thiết, lệ rơi theo tiếng,
nguyện cùng với tất cả chúng sanh, đối trước Phật khẩn cầu sám
hối.
Tắc thiên sanh vạn kiếp ác báo nan đào: Nếu không thì
quả báo ác từ vô lượng kiếp đến nay sẽ khó tránh. Nếu ông
không sám hối thì sẽ phải thọ quả báo ác, quả báo ác này
không dễ dàng trốn tránh, nhất định phải thọ lấy ; trừ phi ông
chân chánh sám hối, ác báo này mới có thể miễn trừ.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ bát nhân duyên dã :
Ðây là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm Bồ đề.
IX. CẦU SANH TỊNH ÐỘ
Âm Hán Việt:
Vân hà cầu sanh Tịnh độ ? Vị tại thử độ tu hành,
kỳ tấn đạo dã nan. Bỉ độ vãng sanh, kỳ thành Phật dã dị. Dị, cố
nhất sanh khả trí; nan, cố lụy kiếp vị thành. Thị dĩ vãng thánh tiền
hiền, nhân nhân xu hướng, thiên kinh vạn luận, xứ xứ chỉ quy. Mạt
thế tu hành, vô việt ư thử. Nhiên kinh xưng: "Thiểu thiện bất
sanh, đa phước nãi trí". Ngôn đa phước, tắc mạc nhược chấp
trì danh hiệu; ngôn đa thiện, tắc mạc nhược phát quảng đại tâm.
Thị dĩ tạm trì thánh hiệu, thắng ư bố thí bách niên. Nhất phát
đại tâm, siêu quá tu hành lịch kiếp. Cái niệm Phật bổn kỳ tác
Phật, đại tâm bất phát, tắc tuy niệm hề vi; phát tâm nguyên vị tu
hành, Tịnh độ bất sanh, tắc tuy phát dị thối. Thị tắc hạ Bồ đề
chủng, canh dĩ niệm Phật chi lê, đạo quả tự nhiên tăng trưởng;
thừa đại nguyện thuyền, nhập ư Tịnh độ chi hải, Tây phương quyết
định vãng sanh. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ cửu nhân duyên dã.
Dịch:
Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? Ở cõi này tu hành
thì sự tiến đạo rất khó khăn, vãng sinh cõi kia thì sự thành
Phật cũng rất dễ dàng. Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt
đến, khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh
ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng; kinh cả ngàn,
luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui. Sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp
này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đã nói
: " Căn lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều
mới chắc chắn đến được". Nói phước đức nhiều thì không
chi bằng sự chấp trì danh hiệu, nói căn lành lớn thì không chi
bằng sự phát tâm quảng đại. Vì thế tạm trì danh hiệu Phật hơn
cả trăm năm bố thí, một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt
hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Vì niệm Phật vốn mong thành
Phật, vậy tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi; còn phát
tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ
thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày bằng lưỡi cày
niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên lớn lên; ngồi chiếc thuyền
đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ, thì Tây phương Cực Lạc
quyết định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát
Tâm Bồ đề.
Giảng:
Vân hà cầu sanh Tịnh độ ? Vân hà có nghĩa là
như thế nào ? Thế nào mới có thể cầu sanh Tịnh độ ? Thế nào
gọi là cầu sanh Tịnh Độ?
Vị tại thử độ tu hành, kỳ tấn đạo
dã nan : Ở thế giới Ta bà này, tuy có thể tu hành, nhưng có
thể tiến lên phía trước, có thể càng ngày càng tăng trưởng
đạo nghiệp thì không phải là chuyện dễ dàng.
Bỉ độ vãng sanh,
kỳ thành Phật dã dị : Bỉ độ tức là thế giới Cực lạc. Một
khi được vãng sanh thế giới Cưc lạc thì hoa nở thấy Phật, ngộ
Vô sanh pháp nhẫn.
Dị, cố nhất sanh khả trí : Vì dễ dàng cho
nên một đời cũng có thể dễ dàng đạt đến. Trí là đạt đến,
thành tựu.
Nan, cố lụy kiếp vị thành : Vì ở thế giới Ta bà
này tu hành không dễ dàng, chướng duyên rất nhiều, cho nên rất
nhiều kiếp, trải qua thời gian rất lâu dài, cũng không dễ dàng
thành tựu.
Thị dĩ vãng thánh tiền hiền, nhân nhân xu hướng:
Vì lý do này, cho nên các bậc thánh nhân và hiền nhân xưa kia,
người người – là Tổ sư nhiều đời về trước, tất cả
những bậc thánh hiền này đều mong cầu sanh Tịnh độ.
Thiên kinh
vạn luận, xứ xứ chỉ quy: tất cả kinh điển do Phật nói ra, và
các bộ luận do chư Tổ sư tạo, mỗi một bộ kinh, mỗi một bộ luận
và mỗi một bộ luật đều là chỉ quy Tịnh độ ; mục đích cuối cùng
đều là dạy chúng ta cầu sanh Tịnh Độ.
Mạt thế tu hành, vô việt ư thử: chúng ta nay ở
thời đại mạt pháp tu hành, không có pháp môn nào có thể vượt
qua pháp môn Tịnh độ, đây là pháp môn phương tiện nhất, dễ dàng
nhất, trực tiếp nhất, đơn giản nhất.
Nhiên kinh xưng: "Thiểu
thiện bất sanh, đa phước nãi trí" Nhưng mà "kinh A Di
Ðà" nói : "Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức
nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc", không
thể chỉ có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được
sanh về nước kia. Cần phải gieo trồng nhiều thiện căn, vun bồi nhiều
phước đức mới được vãng sanh, cũng chính là cần phải tu nhiều
phước báu mới có thể đến được cõi kia.
Ngôn đa phước, tắc mạc nhược chấp trì danh hiệu
: Như thế nào mới có thể vun trồng được nhiều phước đức ?
Chúng ta niệm Phật chính là gieo
trồng phước đức rất lớn, tức là tăng
trưởng phước đức cho chúng ta.
Ngôn đa thiện, tắc mạc nhược
phát quảng đại tâm : Sao gọi là căn lành lớn ? chính là phải phát tâm Bồ đề rộng lớn.
Thị dĩ tạm trì thánh hiệu, thắng ư bố thí bách niên: Vì thế cho nên dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi thọ trì danh hiệu
Ðức Phật A Di Ðà cũng lớn hơn dùng bảy báu bố thí trong trăm
năm. Nhất phát đại tâm, siêu quá tu hành lịch kiếp: Một
niệm phát tâm rộng lớn thì có thể vượt qua sự tu hành trong
nhiều kiếp.
Cái niệm Phật bổn kỳ tác Phật: Cái, tức là
nói tổng quát, tóm lại. Tóm lại tại sao cần phải niệm Phật ?
Niệm Phật chính là muốn thành Phật ; nếu không muốn thành Phật thì
không cần phải niệm Phật. Cho nên:
Đại tâm bất phát, tắc tuy
niệm hề vi: nếu ông không phát tâm rộng lớn, không phát tâm
Bồ đề, niệm Phật để làm chi ? Không cần phải niệm Phật.
Phát
tâm nguyên vị tu hành, Tịnh độ bất sanh, tắc tuy phát dị thối :
tại sao cần phải phát tâm, chính là vì để tu hành. Nếu không cầu
sanh Tịnh độ, tuy có phát tâm rộng lớn, cũng dễ dàng thối thất
tâm Bồ đề.
Thị tắc hạ Bồ đề chủng: Gieo hột giống Bồ đề
tức là phát tâm rộng lớn.
Canh dĩ niệm Phật chi lê: niệm
Phật như dùng lưỡi cày nơi đó cày ruộng.
Ðạo quả tự nhiên
tăng trưởng: Vậy khi ông vừa niệm Phật thì ở bên thế giới
Tây phương Cực lạc liền sanh ra đóa hoa sen.
Thừa đại nguyện
thuyền, nhập ư Tịnh Độ chi hải: Ngồi chiếc thuyền đại nguyện
của Ðức Phật A Di Ðà, vào trong biển lớn Tịnh độ.
Tây phương
quyết định vãng sanh: ông ngồi chiếc thuyền đại nguyện, chấp
trì danh hiệu Phật thì nhất định vãng sanh thế giới Cực lạc, vãng
sanh vào cõi Tịnh độ.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ cửu nhân duyên dã:
Ðây là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm Bồ đề.
X. LINH CHÁNH PHÁP CỬU TRỤ
Âm Hán Việt:
Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn,
vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng
hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật.
Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh
pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo
vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã,
tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật
thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử,
đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi
Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư
nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng
phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi
ngã nhi thùy?
Dịch:
Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài?
Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà
tu đạo Bồ đề, Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn,
nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật,
giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì thời kỳ Chánh
pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt
pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không
phân, thi phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi
chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là
như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng
là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ
đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân
đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống
vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che
nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không
phải ta thì là ai?
Giảng:
Vân hà linh chánh pháp cửu trụ?
Vân hà là như
thế nào ? Như thế nào khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ?
khiến cho chánh pháp không bị diệt vong ?
Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai: Vị là
những điều nói ra. Thế Tôn là danh hiệu khác của Ðức Phật.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay.
Vị ngã
đẳng cố, tu Bồ đề đạo : Ðức Phật tại sao muốn tu hành thành
Phật ? Ngài muốn tu hành thành Phật vì để cứu độ tất cả chúng
ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu thoát sanh
tử, không bị luân chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, cho nên Ðức
Phật mới "tam kỳ tu phúc huệ, bách kiếp chủng tướng hảo",
ba tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt.
Tam kỳ, tức là ba đại tăng kỳ kiếp ; A tăng kỳ là
tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số". Ba đại A tăng kỳ
kiếp tức là ba số lớn vô lượng. Vô lượng số này là một
trong mười sáu số mục lớn, vậy ba vô lượng số lớn, bạn thử
nghĩ xem thời gian bao lâu ? Rất dài rất dài. Trong ba vô lượng số
kiếp này, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì để giáo hóa chúng sanh, vì
để tu thành Phật, vì để phát tâm Bồ đề, Ngài xả sanh rồi lại
thọ sanh, cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi Ðức Phật bỏ sanh
mệnh. Như xả thân cứu cọp, Ðức Phật nhìn thấy một con cọp già
tuy rất độc ác, nhưng đã sắp chết đói, Ðức Phật ngay cả thân
mệnh của mình cũng không cần, cho cọp ăn khiến nó được sống,
sự hy sinh vĩ đại này, không ai có thể sánh bằng. Chúng ta đều
là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh mạng
sống, thành tựu cho người khác, khiến người khác được sống.
Vậy thì Ðức Phật ở trong thời gian dài đăng đẳng ba đại A tăng
kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều lấy sanh mạng bố thí cho chúng
sanh, cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng
ta hiện nay, xưa kia hoặc là đã ăn thịt của Phật, uống máu của
Phật ; cho nên chúng ta hiện nay tin Phật, cần nên báo đáp ân sâu
của Phật. Ðức Phật vì muốn chúng ta được sống, phải hy sinh thân
mạng của mình, vì thế chúng ta cần phải nhớ ơn Ðức Phật.
Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn : tại sao
gọi là làm việc khó làm ? Chính là những việc mà người
thường làm không được, Ngài có thể làm được. Như xả bỏ
đầu mắt não tủy, đầu mắt của mình đều có thể bố thí cho
người. Không phải chết mới bố thí cho người, đang sống cũng có
thể bố thí. Bạn cần con mắt, Ngài sẽ bố thí mắt cho bạn. Bạn có
bệnh, cần có não người để trị, Ngài sẽ không cần đến sanh
mạng của mình đem não bố thí cho bạn, cứu độ bạn. Tủy là cốt
tủy ; cốt tủy của mình cũng bố thí cho người. Không những đầu
mắt não tủy, mà quốc thành thê tử cũng bố thí luôn. Quốc là
đất đai của Ngài cũng không cần, nhường cho kẻ khác. Thành là
thành trì, tài sản của mình cũng nhường cho kẻ khác. Vợ thì mọi
người rất khó xả bỏ, Ngài cũng có thể xả bỏ tặng cho người.
Con, cũng có thể tặng cho người. Nội tài là đầu mắt não tủy
Ngài có thể bố thí ; ngoại tài là quốc thành thê tử Ngài cũng
có thể bố thí. Có người cần chăng ? Ngài đều bố thí cho. Vì
thế, không ai có thể sánh được với Ngài, không ai có thể hy sinh
được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ đề là làm những việc
khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, những việc mà người ta
không thể nhẫn Ngài đều có thể nhẫn.
Nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật: Ngài
trồng nhân đã được viên mãn cho nên quả báo cũng được viên
mãn thành tựu, vì thế thành tựu Phật quả.
Ký thành Phật dĩ,
hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn: Sau khi đã thành Phật,
những chúng sanh cần giáo hóa đều giáo hóa xong, Ngài nhập Niết
bàn. Thế nào là Niết bàn ? Niết bàn là không sanh không diệt,
không có sanh tử, liễu thoát sanh tử.
Chánh pháp tượng pháp: khi Ðức Phật còn tại
thế là thời kỳ chánh pháp ; thời kỳ chánh pháp mọi người
đều tu hành, mọi người đều có thiền định, đều sẽ khai ngộ.
Thời đó tu hành thì sẽ chứng quả ; chứng quả thì sẽ liễu thoát
sanh tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng, người
không chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp thì thiền định kiên
cố, vừa ngồi thì có thể nhập định, còn đến đời tượng pháp
thì sao ? Chỉ là da bên ngoài, chính là chùa chiền kiên cố ; lúc
đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa chiền, tạo tượng
Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp một
ngàn năm, tượng pháp cũng một ngàn năm, nay là thời đại mạt
pháp. Mạt pháp chính là pháp đã ở trên đầu ngọn cây, nên vô
cùng nhỏ bé, ít ỏi. Chánh pháp chính là thời kỳ gốc cây ;
tượng pháp là thời kỳ cành cây ; còn mạt pháp thì đã lên
ngọn cây. Thời kỳ mạt pháp có bao lâu ? thời kỳ mạt pháp là
một vạn năm. Vì thế trừ đi hiện tại, còn hơn tám ngàn năm đều
là thời kỳ mạt pháp.
Nhưng trong thời kỳ mạt pháp, nếu có người chân
chánh tu hành, thì đó là chánh pháp trong thời mạt pháp ; thời
kỳ mạt pháp có người ham thích xây dựng chùa chiền, tu sửa chùa
chiền, tạo tượng Phật, đó là tượng pháp trong thời mạt pháp ;
vậy nếu trong thời mạt pháp không có người tu hành, cũng không
có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, thì thật đúng
là thời kỳ mạt pháp.
Ðến khi pháp sắp diệt, tất cả kinh Phật đều hủy
diệt, chỉ còn bộ "kinh A Di Ðà" vẫn còn tồn tại trên thế
giới này. "Kinh A Di Ðà" còn trụ trên thế giới này năm
trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Ðà" cũng không còn,
lúc đó chỉ còn một câu "A Di Ðà Phật". Câu danh hiệu
"A Di Ðà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm độ vô
lượng chúng sanh, sau đó Phật pháp sẽ không còn nữa, không ai
biết được câu niệm Phật, cái gì cũng không hiểu. Chúng ta hiện
nay vẫn là thời tốt, tuy ở thời kỳ mạt pháp vẫn có thể dụng
công tu hành.
Cho nên nay là chánh pháp, tượng pháp.
Giai dĩ diệt
tận, cẩn tồn mạt pháp : thời kỳ chánh pháp tượng pháp đã
diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi.
Hữu giáo vô nhân : Thời kỳ mạt pháp có Phật
giáo tồn tại, nhưng không có người tu hành ; ngôn hạnh của
người tu hành đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật giáo.
Người xuất gia vốn không nên ăn thịt, uống rượu, có nữ nhân,
nhưng họ lại phạm vào những việc này giống như người tại gia,
đó có nghĩa là không còn pháp nữa. Hữu giáo có nghĩa là còn
có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu
nhân" là người tu hành chân chánh, không nhất định nói là
người hoằng pháp. Không có người tu hành chân chánh, làm gì có
người hoằng pháp ? tự nhiên sẽ không có. Thời này thì như thế
nào?
Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện : như những người
mạo hiểm để cầu lợi danh, những người xuất gia mà không làm
việc xuất gia, đó đều là tà chánh không phân. Ví dụ có một
vài ngoại đạo, họ cho rằng : "Ðây cũng là lễ Quán Âm mà !
cũng là bái Quan Ðế mà ! lại là lễ cái gì cái gì, v.v…",
những điều như thế. Họ không biết cái nào là tà ? cái nào là
chánh ? tà chánh không phân, thị phi cũng không biện biệt được.
Cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh : Thường
tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều tranh danh tranh
lợi, không phải chấp trước vào danh thì chấp vào lợi, cứ mãi
chạy theo danh lợi.
Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị : mở
mắt ra mà nhìn, khắp thiên hạ đều là như thế, thao thao vô tận như
biển cả mênh mông bát ngát, những người này đều làm những
việc danh lợi, đeo đuổi danh lợi, vì thế những vị theo tôi xuất
gia, mà còn chạy theo danh lợi thì tuyệt đối không thể được !
Quyết không nên chung dòng nhơ bẩn, cùng một giuộc xấu xa. Chúng ta
tuy ở trong thời đại mạt pháp, nhưng quyết làm một người đệ
tử Phật chân chánh.
Bất tri Phật thị hà nhân? : không biết Phật là gì
?
Pháp thị hà nghĩa? : Pháp có nghĩa là muốn người dứt các
điều ác, tăng trưởng điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm mới
cuộc đời, muốn người hiểu rõ, nhưng mà họ không hiểu, càng
học càng hồ đồ, càng học càng không hiểu biết.
Tăng thị hà
danh? : Tăng có nghĩa là gì ? Ngay Phật Pháp Tăng tam bảo mà cũng
không biết. Thế nào là Tăng ? không phải một người gọi là
Tăng, mà bốn người trở lên mới được gọi là Tăng. Người
thường cho rằng một người cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm ;
Tăng là mọi người cùng hòa hợp với nhau, lục hòa đồng trụ.
Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! : Ngay cả
Phật Pháp Tăng cũng không hiểu, suy tàn đến mức này khiến cho
tôi thật nói không nên lời, tôi không có cách nào nói ra
được.
Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ : Mỗi khi nghĩ đến
việc này, lệ rơi như mưa, lệ rơi như suối.
Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân : ta là người
xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức
của Ngài.
Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân : đối với
bên trong mà nói, ta không có nỗ lực tu hành, đối với mình không
có lợi ích ; bên ngoài cũng không lợi ích cho người.
Sanh vô
ích ư thời, tử vô ích ư hậu : Khi ta còn sống thì vô ích
đương thời; khi chết rồi cũng không có gì ích lợi cho mai sau.
Thiên
tuy cao, bất năng phú ngã : Trời tuy cao, cũng không dung chứa
được ta ở giữa trời đất.
Ðịa tuy hậu, bất năng tải ngã
: Ðất tuy dày, ta cũng không có tư cách ở giữa trời đất, cùng
trời đất dung hợp.
Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?
Tội nhân cực trọng nhất, ngoài ta ra thì là ai ? Không phải là
người khác mà chính là ta. Ðây là Ðại sư Tỉnh Am dạy người
xuất gia chúng ta đều phải hồi quang phản chiếu, cần phải sám hối ;
không phải ta thì là ai, đó không phải người khác, mà chính là
ta. Cho nên chúng ta là người xuất gia cần phải ghi nhớ không nên
tật đố chướng ngại người khác.
Âm Hán Việt:
Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất; đốn vong
bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử
thời, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư
thiện hữu, đồng đáo đạo tràng; thuật vi sám ma, kiến tư pháp
hội. Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh; kỳ
bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật,
tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng, ký đăng cửu
phẩm, hồi nhập Ta bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái
xiển, tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Ðông
phương, kiếp vận vi chi cánh diên, chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ.
Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ
thập nhân duyên dã.
Dịch:
Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ
thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách
quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận
ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. Vì
thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn
thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại
nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm
ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến
cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên
chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp
rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở
cõi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận
Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó
được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành,
tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự
phát Tâm Bồ đề.
Giảng:
Do thị thống bất khả nhẫn : Nói đến đây ta thật
đau lòng không thể nhẫn nỗi ! nhẫn việc khó nhẫn, nhưng cũng không
thể nhẫn được.
Kế vô sở xuất : Ta cũng không có cách
nào để trốn cho được nơi tụ hội của tội nghiệp.
Ðốn vong bỉ
lậu, hốt phát đại tâm : Vì thế lập tức quên đi mình tệ lậu
hèn kém như thế, bèn phát tâm Bồ đề rộng lớn. Ta không thể
làm kẻ tội nhân đại cực ác như thế, ta cần phải phát tâm Bồ
đề rộng lớn !
Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời : Tuy ta
phát tâm Bồ đề rộng lớn, không thể hoàn toàn vãn hồi cứu
vớt khí số của thời mạt pháp.
Quyết đương đồ hộ trì chánh
pháp ư lai thế : nhưng ta quyết phát nguyện trong thời vị lai hộ
trì chánh pháp.
Tôi bảo với các ông, tại sao tôi phải trụ trì
chánh pháp ? Vì đời đời kiếp kiếp tôi đều phát nguyện hộ trì
chánh pháp, tôi quyết hành trì chánh pháp. Tôi từ vô lượng
kiếp đến này phát cái nguyện này, cho nên tôi đến đây, nhất
định cố gắng mà làm, tôi nhất định phải trụ trì chánh pháp. Bất
quản là bao nhiêu khó khăn gian khổ, dù là có người mắng tôi,
hủy báng tôi, tật đố tôi, chướng ngại tôi, tôi đều phải trụ
trì chánh pháp. Chí nguyện này tôi quyết không bao giờ buông thả
lơi là!
Thị cố giai chư thiện hữu : Vì thế tôi nay cùng
với các bạn lành.
Đồng đáo đạo tràng : cùng đến Vạn
Phật Thành. Ðến Vạn Phật Thành biết không ?
Thuật vi sám ma,
kiến tư pháp hội : Chúng ta đến chỗ này, tu Ðại Bi Sám Pháp.
Quý vị có biết không ? đến Vạn Phật Thành chính là đạo trường,
đạo trường chính là Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành chính là
đạo trường của mỗi vị, quý vị cần phải ghi nhớ không nên chê
bỏ đạo trường lớn của mình. Tại sao đạo trường lớn này là
của quý vị ? Một mình tôi cũng không dùng cho hết đạo trường
lớn như thế ! cho nên đây là của tất cả Phật giáo đồ toàn
thế giới, không phải chỉ riêng mình tôi, tôi bất quá chỉ ở chỗ
này ngày ngày xem nhà cửa giùm quý vị. Quý vị đều rất bận rộn,
đều muốn làm hoàng đế, hoặc làm tổng thống ; đến mỗi chỗ mỗi
nơi, hoạt động công tác của quý vị. Hoặc là làm ông chủ, hoặc
là làm tổng giám đốc, hoặc là ở trong nhà làm ông chủ, mỗi
người đều có chức vụ của mình ; chỉ có tôi là người thất
nghiệp, không có chức nghiệp gì, ở đây làm công cho quý vị,
trông nhà cửa cho quý vị. Cho nên đợi quý vị làm hoàng đế, làm
tổng thống, lúc đó quý vị cần phải phát tâm lớn để hộ trì
Vạn Phật Thành. Nói : "Ô ! Thầy, Thầy cứ nói đùa hoài".
Ông làm sao biết được sau này ông không làm tổng thống ? Ông
làm sao biết được ông kiếp sau không làm hoàng đế ? Ông đời
sau làm hoàng đế, vì ông phát nguyện : "Kiếp sau khi tôi làm
hoàng đế, nhất định sẽ ủng hộ Vạn Phật Thành, ta dùng điện kim
loan của ta tu sửa Vạn Phật Thành, dùng vàng xây dựng Phật điện
nguy nga tráng lệ như điện kim loan". Ðây là điều không biết
trước được, không thể đoán được. Cho nên đệ tử hoàng đế
của tôi, nay ông không muốn trở về hoàng cung. Tôi hỏi ông, tam
cung lục viện thì làm sao ? ông ta nói không quản đến, kêu cả tam
cung lục viện đến Vạn Phật Thành. Kêu họ đến Vạn Phật Thành thì
chỗ này biến thành một nơi tu hành học đạo ; cho nên đây là
điều rất quan trọng.
Chúng ta sang năm từ ngày 21 tháng 7 âm lịch, buổi
tối sái tịnh, ngày 22 chính thức cử hành thất Ðịa Tạng, niệm danh
hiệu Bồ tát Ðịa Tạng, hoặc là niệm "Án ma ni bát di hồng".
Trước kia chúng ta đã thử đả thất "Án ma ni bát di hồng",
ngày đêm sáu thời, ba phiên thay đổi. Phiên thứ nhất niệm tám
tiếng thì thay phiên khác, phiên này lại niệm tám tiếng rồi đổi
phiên khác, cứ luân phiên đổi ca, trong bảy ngày thanh âm này
không bao giờ gián đoạn. Sau khi viên mãn thất, tôi nhìn thấy
những đứa bé Mỹ đều rất thích thú, rất có thành tâm, bèn
viết một bài từ "Vũ Trụ Bạch" để làm kỷ niệm pháp
hội đó. Vậy sang năm chúng ta cùng nghiên cứu, các ông muốn niệm
"Án ma ni bát di hồng" cũng được, muốn niệm "Ðịa Tạng
vương Bồ tát" cũng được, chúng ta dùng bảy ngày, một ngày
sáu thời để niệm Phật. Lần trước không biết mỗi ca là tám
giờ ? hay là mười hai giờ ? Tôi cũng không quản đến, tự họ
niệm, tôi cũng không có tham gia.
Các ông không nên cho rằng ở đây, mỗi Phật sự
tôi đều phải tham gia. Như có người nói : "A ! Chúng con ngồi
thiền cũng không thấy Thầy đến ?". Ngày ngày tôi đều ở
đây, ông nhìn không thấy thì lại trách ai ? Ông không có mắt, làm
sao nhìn thấy được tôi ? Tôi đến ông cũng không biết. Vì bước
chân tôi đi nhẹ không phát ra tiếng, tôi đi qua bên cạnh ông, ông
cũng không biết. Không phải nói chuyện thần thoại, mà đích xác
là như thế ! Lại cho rằng không nhìn thấy tôi. Không nhìn thấy tôi
? ông đến đây vậy ông nhìn thấy ai ?
Vậy ngày 22 bắt đầu đả thất Ðịa Tạng, ngày 22, 23,
24, 25, 26, 27 ; ngày 27 thì viên mãn. Ngày 28, 29, 30 mấy ngày này đều
có bái Phật, có niệm Phật. Chúng ta pháp hội lần này khoảng
mười ngày, mười một ngày. Nếu các ông ai hoan hỷ đến, một mình
đến cũng tốt, đoàn thể đến cũng tốt ! Nhưng khi đến nhất định
phải thông báo trước cho chúng tôi để chúng tôi chuẩn bị chỗ
ở, bố trí các ông đến đây dụng công biện đạo. Ðiều này rất
cần thiết, không nên thình lình mà đến, khiến chúng tôi không có
thời gian bố trí sắp đặt. Trong thời gian đả thất, chúng tôi càng
không thể đi đón người, cũng không thể đưa tiễn người.
Cho nên trong Vạn Phật Thành của chúng ta, sau này bất
luận ai đến chúng ta cũng không tiếp cũng không đưa, đều xem như
người nhà đến chỗ này. Nếu như chúng tôi tiếp rước, đưa
tiễn, thì lãng phí rất nhiều thời gian của người dụng công tu
hành học đạo ở đây, làm cho ông không có công đức. Vì để
thành tựu công đức của quý vị, chúng ta hai bên cần phải yên
ổn vô sự ; đều là người nhà, không nên khách sáo. Ðiểm này
hy vọng quý vị đặc biệt chú ý.
Quan trọng nhất là người hút thuốc khi đến chỗ
này, cũng phải đi khám sức khỏe, quăng bỏ tất cả thuốc hút gì
đó trên máy bay, không nên đem đến Vạn Phật Thành. Ðem đến Vạn
Phật Thành, dù ông không hút thuốc, cũng cho Vạn Phật Thành xông
nồng mùi thuốc lá, thật không chịu nỗi. Chúng tôi thật chịu không
nỗi mùi thuốc ! Tôi có lúc giống như nói đùa vậy, như nói
người của Vạn Phật Thành giống như rắn vậy, rất sợ thuốc, lại
giống như con sâu vậy, những con sâu này, khi ông vừa hút thuốc
nó liền chạy hết. Cho nên chúng tôi ở đây đều là những con
sâu nhỏ, con kiến nhỏ, con muỗi, con ruồi, ở chỗ này ong ong vo ve.
Vậy quý vị khi đến đây ghi nhớ không nên bắt nạt ăn hiếp chúng
tôi là những con sâu nhỏ.
Khi soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, cần phải:
Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh : mỗi
nguyện đều là hóa độ chúng sanh.
Kỳ bách thiên kiếp chi thâm
tâm, tâm tâm tác Phật : Chúng ta dùng thâm tâm trong thời gian
trăm ngàn muôn kiếp, dùng tâm này làm cái gì ? Chính là muốn
thành Phật.
Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế : Từ ngày hôm nay
cho đến cùng tận đời vị lai.
Tất thử nhất hình, thệ quy An
dưỡng : đời này nguyện sanh thế giới Cực lạc. Chính là khi ta
mạng chung nhất định sanh vào thế giới Cực lạc. "An dưỡng"
chính là thế giới Cực lạc.
Ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà : Ðã lên
chín phẩm, hoa nở thấy Phật, sau khi thấy Phật thì trở lại thế
giới Ta bà.
Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển :
khiến cho mặt trời Phật pháp lại huy hoàng sáng chói, pháp môn
lần nữa xiển dương rộng mở.
Tăng hải trừng thanh ư thử giới
: chư Tăng đều trừng thanh, thanh tịnh, chẳng có những người không
tu hành.
Nhân dân bị hóa ư Ðông phương : tất cả nhân dân
đều được Phật giáo hóa, được giáo hóa nơi cõi Ðông phương.
Kiếp
vận vi chi cánh diên : Chánh pháp của Phật vì đó được kéo
dài thêm nữa. Không phải nói kiếp vận kéo dài mà là chánh
pháp kéo dài, kiếp vận sẽ không còn nữa.
Chánh Pháp đắc dĩ
cửu trụ : nếu người người đều tu hành dụng công biện đạo,
người người đều không có lòng ích kỷ, không có tâm cầu danh
cầu lợi, không có tham tâm, không có những dục niệm, đó chính
là chánh pháp tồn tại lâu dài.
Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm : Ðại sư Tỉnh
Am nói, đây là sự khổ tâm nhỏ bé của tôi. Vì Ngài khiêm
nhường cho nên nói nhỏ bé, vi tế, không có sức mạnh gì, là khổ
tâm chân thành nhỏ bé yếu ớt.
Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã :
Ðây là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.