Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

NGHI THỨC SÁM HỐI


Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa

SÁM HỐI SÁU CĂN
Vua Trần Thái Tông biên soạn
H/T. Thích Thanh Từ dịch
CHÍ TÂM SÁM HỐI: 


Chúng con từ vô thuỷ kiếp đến nay, bỏ mất bản tâm, không biết Chánh Đạo.  Rơi ba đường khổ, bởi Sáu Căn lầm;  Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

1.            NGHIỆP CĂN MẮT là:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.  Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.  Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành.  Chợt mắt đối sanh, mờ đường Chánh Kiến.  Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai.  Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.  Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang.  Loà mắt chưa sanh, Bản Lai Diệc Mục.  Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn.  Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.  Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô.  Thân quyến qua đời, đầm lìa lệ máu.  Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền.  Gần Tượng thấy Kinh, mắt không thèm ngó.  Phòng Tăng Điện Phật, gặp gỡ gái trai.  Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.  Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần.  Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.  Những tội như thế, vô lượng vô biên.  Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.  Trải hằng sa kiếp, mới được làm người.  Dù được làm người, lại bị mù chột.
2.  NGHIỆP CĂN TAI là:
Ghét nghe Chánh Pháp, thích lắng lời tà.  Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng.  Sáo đàn inh ỏi, Bảo Khúc Long Ngâm.  Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái.  Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ.  Lời Kinh câu Kệ, không chút lắng tai.  Thoảng nghe khen hảo, khấp khởi mong cầu.  Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận.  Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi.  Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích.  Hoặc gặp Thầy bạn, dạy bảo đinh ninh.  Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc.  Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm.  Nghe nửa câu Kinh, liền như tai ngựa.  Những tội như thế, vô lượng vô biên.  Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết.  Sau khi mạng chung, rơi Ba Đường Ác.  Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.
3.  NGHIỆP CĂN MŨI là:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào.  Chẳng thích chơn hương, Năm Phần Thanh Tịnh.  Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi.  Giới Định Hương Huân, chưa từng để mũi.  Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài.  Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói.  Theo dõi hương trần, Long Thần chẳng nể.  Chỉ thích mùi sằng, trọn không chán mỏi.  Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa.  Cây Giác Hoa Tâm, xoay đi không đoái.  Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau.  Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.  Chẳng ngại tanh hôi, không kiên hành tỏi.  Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ.  Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng.  Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch.  Hoặc say nằm ngủ, Điện Phật Phòng Tăng.  Hai mũi thở hơi, xông Kinh nhơ tượng.  Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm.  Không biết không hay, đều do nghiệp mũi.  Những tội như thế, vô lượng vô biên.  Sau khi mạng chung, đoạ Ba Đường Khổ.  Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người.  Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.


4. NGHIỆP CĂN LƯỠI là:
Tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở.  Nếm hết các thứ, biết rõ béo gầy.  Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình.  Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú.  Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông.  Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu.  Hoặc đến đàn chay, cầu thần lễ Phật.  Cố cam bụng đói, đợi lúc tiệc xong.  Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều.  Giống hệt người đau, gắng nuốt thuốc cháo.  Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan.  Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi.  Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con.  Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi.  Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm.  Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi.  Chửi mắng Tam Bảo, nguyền rủa Mẹ Cha.  Khinh khi Hiền Thánh, lừa dối mọi người.  Chê bai người khác, che dấu lỗi mình.  Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ.  Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo.  Xua đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ.  Lời dèm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn.  Tô vẽ điều sai, nói không thành có.  Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông.  Tán dóc Tăng Phòng, ba hoa Phật Điện.  Những tội như thế, vô lượng vô biên.  Ví như cát bụi, đếm không thể cùng.  Sau khi mạng chung, vào Ngục Bạt Thiệt.  Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi.  Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh.  Dù được làm người, lại bị câm bặt.
5. NGHIỆP CĂN THÂN là:
Tinh Cha huyết Mẹ, chung hợp nên hình.  Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp.  Chấp cho là thật, quên mất Pháp Thân.  Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành BA NGHIỆP:
A. NGHIỆP SÁT SANH là: Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ.  Giết hại Bốn Loài, đâu biết một thể.  Lầm hại cố giết, tự làm dạy người.  Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối.  Hoặc làm thuốc độc, để hại sanh linh.  Chỉ cốt hại người, không hề thương vật.  Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối.  Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim.  Thấy nghe tùy hỷ, niệm dấy tưởng làm.  Cử động vận hành, đều là tội lỗi.
B. NGHIỆP TRỘM CẮP là: Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà.  Phá khoá cạy then, sờ bao mò túi.  Thấy của Thường Trụ, lòng dấy khởi tham.  Trộm của nhà chùa, không sợ Thần giận.  Không những vàng ngọc, mới mắc tội to.  Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm.
C. NGHIỆP TÀ DÂM là: Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son.  Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục.  Hoặc nơi đất Phật, Chánh Điện Phòng Tăng, Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn.  Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai.  Khoét ngoạch trèo tường, đều là dâm nghiệp.  Những tôi như thế, vô lượng vô biên.  Đến lúc mạng chung, đều vào địa ngục.  Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng.  Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo.
6. NGHIỆP CĂN Ý là:
Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, không lúc nào dừng.  Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng.  Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền.  Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.  Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh.  Não loạn tâm thần, đều do Ba Độc:
A.     TỘI KEO THAM là: Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ.  Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ.  Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy.  Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.  Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét.  Lụa là chất đống, nào có giúp ai.  Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều.  Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn.  Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai.  Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí.  Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo.  Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.
B.     TỘI NÓNG GIẬN là: Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu.  Quắc mắt quát to, tiêu tan hoà khí.  Không riêng người tục, cả đến Thầy tu.  Kinh luận tranh dành, cùng nhau công kích.  Chê cả Sư Trưởng, nhiếc đến Mẹ Cha.  Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy.  Buông lời hại vật, cất tiếng hại người.  Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm.  Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu.  Dù ở cửa Không, chưa thành Vô Ngã.  Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây.  Những tội trên đây, đều do nghiệp giận.
C.     TỘI NGU SI là: Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm.  Chẳng hiểu tôn ty, không phân thiện ác.  Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay.  Mắng Phật chuốc ương, phun Trời ướt mặt.  Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân.  Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp.  Những tội như thế, rất nặng rất sâu.  Đến lúc mạng chung, rơi vào Địa Ngục.  Trải ngàn muôn kiếp, mới được thọ sanh.  Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo.  Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ.  Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

TỤNG TAM QUY - NGŨ GIỚI
TAM QUY
Chúng con nguyện suốt đời QUY Y PHẬT, QUY Y PHÁP, QUY Y TĂNG (1 lạy)
QUY Y PHẬT là: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là Bậc Thầy Giác Ngộ sáng suốt của chúng con.
QUY Y PHÁP là: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo Chánh Pháp từ Kim Khẩu Đức Phật nói ra.
QUY Y TĂNG: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo những Tăng sĩ tu hành đúng chánh pháp của Như Lai.
QUY Y PHẬT rồi, chúng con không kính trọng tu theo Trời, Thần, Quỷ, Vật.  QUY Y PHÁP rồi, chúng con không kính trọng tu theo ngoại đạo, tà giáo.  QUY Y TĂNG rồi, chúng con không kính trọng, làm thân với bạn dữ, nhóm ác.


NGŨ GIỚI
1. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG SÁT SANH.  Nghĩa là chúng con không giết người bằng mọi cách, không sai bảo kẻ khác giết người.  Cho đến những con vật lớn hay nhỏ, chúng con cũng không nhẫn tâm giết hại; mà hằng bảo vệ sanh mạng chúng sanh.
2. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP.  Nghĩa là chúng con thấy tài sản, vật dụng của người, không khởi lòng tham, lén lấy hay giật lấy; mà luôn luôn bảo vệ tài sản của người như tài sản của mình.
3. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG TÀ DÂM.  Nghĩa là chúng con chỉ một vợ một chồng, chớ không có lòng mê hoa đắm sắc, làm điều tà vạy, gây đau khổ cho gia đình mình và gia đình người; mà hằng tán thán ca ngợi đời sống trinh bạch.
4. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI.  Nghĩa là chúng con không do lòng tham nói lời dối trá lừa bịp người, không do lòng nóng giận nói lời hung dữ khiến người buồn giận, không do lòng hiểm ác nói lời vu oan, vu cáo khiến người bị khó khăn tù tội; mà hằng nói lời chân thật ngay thẳng.
5. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU.  Nghĩa là chúng con không uống các thứ rượu mạnh và nhẹ khiến tâm trí rối loạn mờ tối, thân thể sanh nhiều bệnh hoạn, chuốc lỗi lầm với thân nhân và quyến thuộc; cho đến các thứ á phiện, xì ke, ma tuý thảy đều tránh xa.  Cúi xin Tam Bảo hộ trì khiến chúng con đầy đủ nghị lực, gìn giữ NĂM GIỚI trong sạch để được là người tốt trong đời này và đời sau.




TÂY PHƯƠNG CỬU BÁI
Nghi Thức Sám Hối của H/T. Thích Trí Tịnh
Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Chư Phật (1 lạy)

Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Tôn Pháp (1 lạy)

Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
Sắc thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.

Sắc thân Phật vô tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường trú
Cho nên con về nương.

Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.

Con nay sạch Ba Nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Đồng sanh nước An Lạc.

Án phạ nhựt ra vật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thường Tịch Quang Tịnh Độ A MI ĐÀ Như Lai - Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thật Báo Trang Nghiêm Độ A MI ĐÀ Như Lai - Thân Tướng Hải Vi Trần Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Phương Tiện Thánh Cư Độ A MI ĐÀ Như Lai - Thân Trang Nghiêm Giải Thoát Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây A MI ĐÀ Như Lai - Thân Căn Giới Đại Thừa Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây A MI ĐÀ Như Lai - Thân Hóa Đến Mười Phương Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây GIÁO, HẠNH, LÝ Ba Kinh - Tột Nói Bày Y, Chánh Khắp Pháp Giới Tôn Pháp (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát - Thân Tử Kim Muôn Ức Khắp Pháp Giới Bồ Tát (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây ĐẠI THẾ CHÍ Bồ tát - Thân Trí Sáng Vô Biên Khắp Pháp Giới Bồ Tát (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG - Thân Hai Nghiêm Phước, Trí Khắp Pháp Giới Thánh Chúng (1 lạy)

Con nay khắp vì Bốn Ơn, Ba Cõi cùng chúng sanh trong Pháp Giới, đều nguyện dứt trừ Ba Chướng nên Quy Mạng Sám Hối (1 lạy)


Con từ vô thỉ đến nay Sáu Căn che mù, Ba Nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. Kinh rằng: Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật Pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc.  Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các Đức Phật và A MI ĐÀ Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng Pháp Giới chúng sanh, tất cả tội nặng do Ba Nghiệp Sáu Căn gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.  


Đệ tử sám hối rồi, Sáu Căn cùng Ba Nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh Độ khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An Dưỡng.  Nguyện Đức A MI ĐÀ Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh Độ, đến giờ lâm chung thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy Đức A MI ĐÀ cùng các Thánh Chúng tay cầm Đài Hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A MI ĐÀ Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo (1 lạy)
Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

NHỮNG LỜI HUYỀN KÝ - P/1

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


VỀ THỜI MẠT KIẾP
Trích dẫn PHẬT HỌC TINH YẾU - Thiên Thứ II, Tiết III
Cố H/T. Thích Thiền Tâm

Khi Ðức Thế Tôn sắp niết bàn, Ngài có huyền ký tình trạng trong đời Mạt Pháp và lúc Chánh Pháp sắp diệt.  Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật tử xuất gia, tại gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.  Trong Kinh Đại Bi, Đức Phật bảo:
“Nầy A Nan!  Khi ta niết bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo Chánh Pháp lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều.  Do chúng sanh phỉ báng Chánh Pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên.  Bấy giờ có nhiều Tỷ Khưu đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ.  Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.  Cho nên, A Nan!  Đối với những vị xuất gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng dường cho đầy đủ.  Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều nầy!  Tại sao thế?  Vì trong cõi Ngũ Trược vào thời Mạt Kiếp có nhiều sự khổ nạn như:  đói, khát, giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân duyên làm cho chúng sanh bị xúc não.  A Nan!  Lúc bấy giờ có các hàng trưởng giả, cư sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam Bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo Phật Pháp làm lành.  Do Thiện Căn đó khi mạng chung họ được sanh về Thiên Đạo, hưởng các điều vui.  Còn các Tỷ Khưu ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất gia; nhưng sau khi xuất gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào Ác Đạo"...
Kinh Đại Tập nói:
“Trong đời Mạt Pháp có những vua, quan, cư-sĩ, ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm khinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất gia.  Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết”...
Kinh Ma Ha Ma Gia nói:
“Khi Đấng Nhất Thế Trí vào niết bàn rồi, một trăm năm sau có Tỷ Khưu Ưu Ba Cúc Đa đủ tài biện thuyết như Phú Lâu Na độ vô lượng chúng.  Hai trăm năm sau có Tỷ Khưu Thi La Nan Đà khéo nói pháp yếu, độ mười hai ức người trong Châu Diêm Phù.  Ba trăm năm sau có Tỷ Khưu Thanh Liên Hoa Nhãn thuyết pháp độ được nữa ức người.  Bốn trăm năm sau có Tỷ Khưu Ngưu Khẩu thuyết pháp độ được một vạn người.  Năm trăm năm sau có Tỷ Khưu Bảo Thiên thuyết pháp độ được hai vạn người và khiến cho vô số chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.  Đến đây thời kỳ Chánh Pháp đã chung mãn.  Sáu trăm năm sau 96 thứ ngoại đạo phục hưng, nhiều tà thuyết nổi lên phá hoại Chánh Pháp.  Lúc ấy có Tỷ Khưu Mã Minh ra đời, dùng tài huệ biện hàng phục ngoại giáo.  Bảy trăm năm sau, có Tỷ Khưu Long Thọ ra đời, dùng sức chánh trí xô ngã cột phướn tà kiến, đốt sáng ngọn đuốc Phật Pháp.  Tám trăm năm sau hàng xuất gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi buông lung, trong trăm ngàn người tu chỉ có một ít người đắc đạo.  Chín trăm năm sau trong giới Tăng Ni, phần nhiều là hạng nô tỳ bỏ tục xuất gia.  Một ngàn năm sau các Tỷ Khưu nghe nói pháp Bất Tịnh Quán, Pháp Sổ Tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người chỉ có ít người được vào Chánh Định.  Từ đó về sau lần lần hàng xuất gia hủy phá giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của ngôi Tam Bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con thì trai làm Tăng, gái làm Ni, chỉ còn số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương Chánh Giáo.  Khi áo cà sa của Tăng Ni biến thành Sắc Trắng đó là triệu chứng Phật Pháp sắp diệt”...
Trong Kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật bảo:
“Về sau khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi Ngũ Trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh.  Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa Môn để phá rối đạo pháp của ta.  Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà sa Năm Sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.  Bấy giờ có các vị Bồ Tát, Bích Chi, La Hán vì bản nguyện hộ trì Phật Pháp hiện thân làm Sa Môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng.  Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem Kinh, Tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người.  Khi có những vị Sa Môn đạo đức như thế, các Tỷ Khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên.  Từ đó các Tỷ Khưu ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm.  Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất gia làm Tăng Ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật Pháp suy vi chính là do bọn nầy.  Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu.  Đến kỳ tụng giới trong mỗi nữa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe.  Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.  Nếu có đọc tụng Kinh văn họ không rành câu chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải.  Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô, để hy vọng mọi người cúng dường.  Các Tỷ Khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh trải qua nhiều kiếp.  Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam Bảo.
Lúc Phật Pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức.  Trái lại người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu Phước Huệ, khi thấy hàng Sa Môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi.  Lúc ấy do Nghiệp Ác của chúng sanh, mưa nắng không điều hòa, Ngũ Sắc hư hao tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số.  Thời bấy giờ hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn.  Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, Chư Thiên buồn thương rơi lệ.
Nầy A Nan!  Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc.  Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn.  Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, bão lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó là Nghiệp Báo, hoặc vì sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường.  Bấy giờ nếu có bậc Bồ Tát, Bích Chi, La Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do Nghiệp Ác của chúng sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự Pháp Hội.  Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được Chư Thiên hộ trì.  Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà sa của hàng Sa Môn đổi thành Sắc Trắng, Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Bát Chu Tam Muội tiêu diệt trước, các Kinh khác lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.
Nầy A Nan!  Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn.  Đạo pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế.  Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di Lặc ra đời giáo hóa chúng sanh”.  


Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

NHỮNG LỜI HUYỀN KÝ - P/2

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


ĐỨC TỪ THỊ VÀ HỘI LONG HOA
Trích dẫn PHẬT HỌC TINH YẾU - Thiên Thứ II, Tiết IV
Cố H/T. Thích Thiền Tâm

Gần đây có nhiều thuyết tuyên truyền nói không bao lâu Hội Long Hoa sẽ mở, Ðức Di Lặc sẽ ra đời giáo hóa chúng sanh.  Có người lại quả quyết rằng:  độ chừng 40 năm nữa, sẽ có Hội Long Hoa mở ra tại Núi Cấm.  Chẳng những ở Việt Nam, mà thời gian trước tại Trung Hoa cũng có thuyết ấy.  Đó là do những người của các giáo phái khác không tham khảo chính xác về Đạo Phật, nghe nói Hội Long Hoa rồi phụ họa theo mà tuyên truyền, nếu có người thử hỏi ý nghĩa của hai chữ Long Hoa không chừng họ chẳng hiểu nữa là khác!  Cũng có giáo phái cố ý đem Hội Long Hoa của Đạo Phật làm của mình, nên mới sanh ra sự đồn đãi như trên.  Xét ra họ được điểm tốt là khuyên mọi người cố gắng làm lành “để rồi gần đây sẽ gặp Di Lặc”.  Nhưng cũng có điều lỗi lầm là đã vô tình hoặc cố ý làm sai lạc giáo thuyết trong Kinh Phật.
Theo Phật Giáo, Ðức Thích Ca ra đời lúc nhơn thọ còn 100 tuổi.  Qua mỗi trăm năm thọ số con người bớt xuống 1 tuổi, giảm đến khi nhơn thọ còn 10 tuổi rồi lại tăng lần đến lúc 84.000 tuổi là mãn tiểu kiếp thứ chín của trụ kiếp.  Sang tiểu kiếp thứ mười, lúc nhơn thọ từ 84.000 tuổi giảm còn 80.000 tuổi, Ðức Di Lặc mới ra đời.  Từ khi Phật Thích Ca niết bàn đến nay đã được 2.508 ta tạm kể chẳn là 2.500 năm, mức sống con người hiện thời 75 tuổi là thượng thọ.  Lấy mức nhơn thọ 75 tuổi kể theo số niên kiếp tăng giảm, thì từ đây đến lúc Ðức Di Lặc ra đời còn 8.805.500 năm nữa.  Lúc Ðức Di Lặc thành Chánh Giác, Ngài ngồi nơi một gốc Đại Thọ, cành cây như mình Rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long Hoa Bồ Đề.  Sau khi thành đạo quả, Phật Di Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long Hoa Pháp Hội.
Theo Kinh Di Lặc Hạ Sanh và Trường A Hàm, thì khi Ðức Di Lặc giáng sinh, nhơn thọ được tám muôn tuổi.  Bấy giờ mực nước biển giảm xuống để lộ thêm 3.300 du thiện na đất liền, Châu Nam Thiệm Bộ chu vi rộng được một vạn du thiện na.  Dưới đây là một đoạn Kinh tả cảnh tượng vui đẹp thanh bình trong lúc đó:
"Thuở ấy nước giàu thạnh
Dân không bị hình phạt
Khỏi tất cả tai ách
Chúng nam nữ trong xứ
Đều do Thiện Nghiệp sanh.  
Đất khắp nơi bằng phẳng
Không có những chông gai
Cỏ xanh tốt dịu mềm
Đi êm như bông nệm
Ngoài nội mọc lúa thơm
Đủ hương vị ngon lạ.  
Các cây sanh y phục
Mọi vẻ đều tươi sáng
Cây cao ba câu xá
Hoa trái thường sung mãn. 
Bấy giờ người trong nước
Đều sống tám muôn tuổi
Không có các tật bịnh
Tướng mạo rất xinh đẹp
Sắc lực đều đầy đủ
Tâm hằng được an vui
Khi biết mình mệnh chung
Đến Thi Lâm xả thọ.  
Chỗ Luân Vương đóng đô
Là thành Diệu Tràng Tướng
Dọc mười hai do tuần
Bảy do tuần ngang rộng.  
Những kẻ ở trong đó
Ðều đã chủng nhân mầu
Đây là nơi Phước Địa
Người hưởng cảnh nhàn vui
Lâu đài để trấn quốc
Bằng Bảy Báu nguy nga
Các cửa ngõ trong ngoài
Đều trang nghiêm mỹ lệ
Những hào lũy quanh thành
Cũng xây bằng chất báu
Hoa tươi khắp bốn bề
Chim lành bay đậu hót
Ngoài thành cây Đa La
Đủ bảy vòng bao bọc
Lưới đẹp cùng Linh Ngọc
Giăng nối các hàng cây.  
Mỗi cơn gió thoảng qua
Tiếng linh khua thanh diệu
Dường như nhạc Bát Âm
Khiến lòng người vui vẻ.  
Trong ngoài nhiều ao hồ
Trong hồ nhiều Sen Lạ
Vườn hoa cùng hương lâm
Trang nghiêm cảnh thành ấy"...  

Đại khái nhơn loại thời đó đều xinh đẹp sống lâu, trai gái 500 tuổi mới có vợ chồng.  Cảnh vật trong nước sáng sủa tốt tươi, không có các loài ruồi muỗi, rắn rết độc trùng; gạch ngói sạn đều biến thành Lưu Ly.  Con người thuở ấy không bị khổ vì chiến tranh, khỏi lo nhọc về sự ăn mặc.  Tất cả đều hiền lành, tu Mười Nghiệp Thiện, sau khi chết phần nhiều được sanh lên cõi Trời.  Nhưng Phước Đức chưa được đầy đủ, nên bấy giờ loài người còn có những Nghiệp Tướng như:  nóng, lạnh, đói, khát, tiểu tiện, đại tiện, tham dục, thích ăn uống, suy già.  Tuy nhiên do Phước Nghiệp, khi đại tiểu tiện xong, đất chỗ ấy nứt ra rồi khép lại che dấu uế vật, Hoa Sen Đỏ liền ló lên tuôn ra mùi thơm đánh tan xú khí.
Vị Luân Vương thời đó tên là Hướng Khê.  Vua cai trị Bốn Châu, có Bảy Báu, một ngàn người con và đủ cả Bốn Binh.  Trong nước có Bốn Kho Tàng lớn; mỗi kho chứa trăm vạn ức châu báu.  Vị Quốc Sư cũng chính phụ tướng đại thần đương triều là Thiện Tịnh Bà La Môn, ông nầy có bà phu nhơn xinh đẹp tên là Tịnh Diệu.  Di Lặc Bồ Tát từ cõi Trời Đâu Suất giáng sinh làm con trai của vợ chồng Quốc Sư.  Bồ Tát lúc sanh ra có đủ 32 Tướng Tốt, thân hình đầy đặn, khuôn mặt đoan trang tươi sáng như trăng rằm, đôi mắt trong đẹp như cánh Hoa Sen Xanh.  Khi Bồ Tát lớn lên, Ngài thông thuộc các nghề, kẻ tùy học được 84.000 người.  Một năm nọ Vua Hướng Khê làm tràng Diệu Bảo để mở hội thí vô giá, các phạm chí vì giành giựt châu báu làm gãy nát bảo tràng.  Bồ Tát thấy thế ngộ lý vô thường, xuất gia tu thành Phật, hiệu là Từ Thị Như Lai.  Trong hội thuyết pháp đầu tiên, Ðức Từ Tôn độ được 96 ức người thành đạo quả; hội thứ hai độ được 94 ức người và hội thứ ba độ được 92 ức người.  Nơi thiền môn vào kỷ niệm Ðức Di Lặc, Chư Tăng Ni thường đọc bài tán, trong ấy có câu: “Long Hoa Tam Hội nguyện tương phùng” (Ba Hội Long Hoa nguyền được gặp).  Câu nầy là chỉ cho Ba Pháp Hội đã nói trên.  Nhưng thật ra Ðức Từ Thị Như Lai thuyết pháp rất nhiều hội, chớ không phải chỉ có Ba Hội ấy.  Sở dĩ trong Kinh nói có ba là muốn nêu ra tánh cách quan trọng và lớn lao nhất của Ba Hội trong nhiều Pháp Hội đó thôi.  Người nào muốn dự Ba Hội Long Hoa nên thực hành đúng Ba Điều Kiện, theo lời nguyện của Ðức Di Lặc như sau:
1.  Những vị Tăng Ni xuất gia trong giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu có thể giữ gìn giới hạnh trang nghiêm, tương lai sẽ được tham dự và độ thoát trong Pháp Hội đầu tiên của ta.
2.  Hàng Phật tử tại gia, nếu giữ đúng Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, phụng thờ và cung kính cúng dường Ngôi Tam Bảo sẽ được độ thoát trong Pháp Hội thứ hai của ta.
3.  Những kẻ tuy chưa giữ giới, nhưng có lòng Chánh Tín đối với Ngôi Tam Bảo biết kính lễ Phật và đem tâm thành cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sẽ được độ thoát trong Pháp Hội thứ ba của ta.
Trên đây là đại lược về thời kỳ giáng sinh thành Phật của Ðức Di Lặc ở tương lai.  Nếu vị nào muốn nghe pháp và được hóa độ trong Ba Hội Long Hoa cần nên chú ý. 

Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

ĐƯỜNG MÂY QUA XỨ TUYẾT


Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


HÀO QUANG TỎA SÁNG KHI NIỆM PHẬT


Có hai vị Lạt Ma là Ajo và Reto cùng theo học một thầy.  Reto là một học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở một cách dễ dàng, trong khi Ajo chỉ chuyên tâm Lễ Bái và Thiền Định.  Lạt Ma Reto ghi danh vào Đại Học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở nên một Pháp Sư nổi tiếng của Tây Tạng, trong khi Lạt Ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi.  Sau nhiều năm không gặp nhau, một hôm Pháp Sư Reto có dịp công du qua làng cũ.  Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi.  Gặp nhau cả hai đều mừng rỡ chuyện trò vui vẻ, Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đến đâu.  Lạt Ma Ajo thành thật thưa rằng:


- Bao năm nay chỉ chuyên tụng một bộ Kinh A DI ĐÀ mà thôi


Pháp Sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có một bộ Kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết.  Reto bèn giảng giải cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu cho đến tận khuya mới đi ngủ.  Vừa chợp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói loà cả một vùng.  Ánh sáng này phát ra từ phía Chánh Điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào.  Ông thấy Lạt Ma Ajo đang chắp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng Danh Đức Phật A DI ĐÀ nhưng quanh ông này hào quang sáng rực cả Chánh Điện.  Ông thấy trong hào quang đó có một ao sen lớn bằng các thứ Ngọc Báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng.  Ngoài ra, còn có những giống Chim Lạ cất tấu lên những điệu nhạc hoà nhã, vi diệu nghe như tiếng giảng Kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn Đà La rơi xuống Ao Báu toả ánh sáng khắp nơi.  Pháp Sư Reto nín thở theo dõi cho đến khi Lạt Ma Ajo trì tụng xong bộ Kinh A DI ĐÀ thì linh ảnh đó mới biến mất.  Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy.  Lạt Ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng 6 chữ Hồng Danh mà thôi.  Lạt Ma Reto lại hỏi:


- Nhưng ta thấy hào quang sáng ngời trong Chánh Điện và những linh ảnh lạ lùng.  Chắc chắn chú phải có những phương pháp tu luyện gì nữa chứ?


Lạt Ma Ajo cho biết:
- không hề áp dụng một phương pháp gì ngoài việc gìn giữ Thân - Khẩu - Ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng Hồng Danh Phật A DI ĐÀ mà thôi.


- Làm sao có thể như vậy được?  Như ta đây làu thông Kinh điển, tu tập bao năm nay mà đâu đã có kết quả gì?  - Lạt Ma Reto thắc mắc.


- Có lẽ huynh chỉ đọc văn giải nghĩa để thoả mãn trình độ trí thức giỏi biện luận như một nhà thông thái mà thiếu hành trì, không chí thành cung kính, đọc Kinh còn nghi ngờ, chỉ trọng về Lý Tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân - Tâm chăng?  Như em đây thì chuyên tâm tin tưởng vào lời khuyên dạy của Chư Phật, tin rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, tin vào Đại Nguyện của Phật A DI ĐÀ và tha lực tiếp dẫn của Ngài, rồi chí thành nguyện cầu sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc.


Pháp Sư Reto bừng tỉnh vội vã chắp tay đảnh lễ người em đã khai ngộ cho mình.  Ông trở về Lhassa trình bày sự việc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, rồi xin từ chức Pháp Sư về nhập thất tu Thiền trong dãy Tuyết Sơn.  Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lệnh cho xây một ngôi chùa nguy nga rộng lớn để xứng đáng với công đức tu hành của một vị Cao Tăng và phong cho Lạt Ma Ajo chức Hoà Thượng (Rinpoche).  Tuy nhiên Hoà Thượng Ajo không thích việc có một ngôi chùa riêng như vậy, ông chỉ muốn tiếp tục sống trong ngôi chùa nhỏ bé nơi thung lũng Chumbi mà thôi.  Vị quan trông coi việc xây cất lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì Ngài cho biết dù chùa cao to đẹp đẽ, dù cung vàng điện ngọc cũng chỉ là hình thức bên ngoài, hữu sinh hữu hoại, nay còn mai mất, không thể so sánh với cảnh giới của cõi Cực Lạc được.


Sau cùng, người ta đành mời Ngài về trụ trì Chùa Tse Cholin, một ngôi chùa lớn trong vùng, vì vị trụ trì tại đây đã qua đời trước đó ít lâu.  Hoà Thượng Ajo nhận lời quản trị ngôi chùa này nhưng vẫn tiếp tục sống tại ngôi chùa nhỏ bé cũ gần đó, vì ông biết rằng vị trụ trì Tse Cholin sẽ Hoá Thân trở lại đây trong 1 thời gian không lâu nữa.  Theo Hoà Thượng Ajo, thì Đức Phật đã chỉ dẫn rất nhiều Pháp Môn khác nhau, các đệ tử tuỳ theo căn cơ trình độ lãnh hội mà tu hành được giải thoát.  Tuy nhiên vì biết vào thời Mạt Pháp (Kali Yuga), chúng sanh Nghiệp sâu, trí mỏng khó có thể trông cậy vào tự lực cá nhân mà giải thoát, nên Đức Phật đã truyền dạy riêng một phương pháp giản dị là Pháp Môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh.  Pháp Môn này giản dị mà công năng vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì, vì ngay như Đức DI LẶC chỉ còn một Kiếp nữa sẽ thành Phật mà Ngày Đêm sáu thời còn đảnh lễ, trì niệm Hồng Danh Chư Phật.


Theo Hoà Thượng Ajo, thì cách trì tụng Hồng Danh phải đặt căn bản trên sự chí thành, khẩn thiết thì mới được cảm ứng.  Dù làm đúng các nghi thức nhưng tâm không thành thì khó có kết quả gì, tóm lại vấn đề trọng yếu vẫn là ở tâm.  Ngài chỉ phương pháp Quán Tưởng, là lúc nào cũng giữ trong tâm hình ảnh của Đức Phật A DI ĐÀ và cảnh giới cõi Cực Lạc mà trong đó bất cứ thứ gì cũng phát ra hào quang sáng chói, nơi mà tiếng gió thổi, chim hót, lá cây rụng cũng phát ra những Diệu Âm.  Ngài cho biết làm sao để lúc đ, đứng, nằm, ngồi cũng đều chú tâm vào hình ảnh Đức Phật A DI ĐÀ cho đến lúc thật thuần thục, không thấy có mình là người niệm Phật và Phật là một Vị mà mình đang Niệm, chỉ có một ánh sáng vô tận, vô lượng chiếu soi.  Niệm đến chỗ Vô Niệm, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, thì sẽ được cảnh giới Bất Khả Tư Nghì.  Hoà Thượng Ajo cho biết sáu chữ Hồng Danh A DI ĐÀ Phật có một oai lực vô cùng rộng lớn với những Mật Nghĩa sâu xa, mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cùng tận mà thôi.  Phật A DI ĐÀ là Pháp Giới Tạng Thân, bao nhiêu công đức của Chư Phật trong Mười Phương Pháp Giới, nơi một Đức Phật A DI ĐÀ đều đầy đủ cả.  A DI ĐÀ có nghĩa là nguồn sáng vô tận (Vô Lượng Quang), tuổi thọ vô lượng (Vô Lượng Thọ); hay nói theo nghĩa khác là bao gồm toàn thể không gian (ánh sáng) và thời gian (tuổi thọ) tượng trưng cho Chân Lý Tuyệt Đối bất khả tư nghì.


Trích ĐƯỜNG MÂY QUA XỨ TUYẾT
của Lama Anagarika Govinda - Nguyên Phong dịch


Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật