Vua Trần Thái Tông biên soạn
H/T. Thích Thanh Từ dịch
CHÍ TÂM SÁM HỐI:
Chúng con từ vô thuỷ kiếp đến nay, bỏ mất bản tâm, không biết Chánh Đạo. Rơi ba đường khổ, bởi Sáu Căn lầm; Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.
Chúng con từ vô thuỷ kiếp đến nay, bỏ mất bản tâm, không biết Chánh Đạo. Rơi ba đường khổ, bởi Sáu Căn lầm; Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.
1. NGHIỆP CĂN MẮT là:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh. Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật. Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành. Chợt mắt đối sanh, mờ đường Chánh Kiến. Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai. Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù. Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang. Loà mắt chưa sanh, Bản Lai Diệc Mục. Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn. Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái. Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô. Thân quyến qua đời, đầm lìa lệ máu. Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền. Gần Tượng thấy Kinh, mắt không thèm ngó. Phòng Tăng Điện Phật, gặp gỡ gái trai. Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục. Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần. Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục. Trải hằng sa kiếp, mới được làm người. Dù được làm người, lại bị mù chột.
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh. Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật. Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành. Chợt mắt đối sanh, mờ đường Chánh Kiến. Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai. Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù. Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang. Loà mắt chưa sanh, Bản Lai Diệc Mục. Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn. Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái. Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô. Thân quyến qua đời, đầm lìa lệ máu. Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền. Gần Tượng thấy Kinh, mắt không thèm ngó. Phòng Tăng Điện Phật, gặp gỡ gái trai. Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục. Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần. Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục. Trải hằng sa kiếp, mới được làm người. Dù được làm người, lại bị mù chột.
2. NGHIỆP CĂN TAI là:
Ghét nghe Chánh Pháp, thích lắng lời tà. Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng. Sáo đàn inh ỏi, Bảo Khúc Long Ngâm. Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái. Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ. Lời Kinh câu Kệ, không chút lắng tai. Thoảng nghe khen hảo, khấp khởi mong cầu. Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận. Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi. Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích. Hoặc gặp Thầy bạn, dạy bảo đinh ninh. Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc. Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm. Nghe nửa câu Kinh, liền như tai ngựa. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết. Sau khi mạng chung, rơi Ba Đường Ác. Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.
Ghét nghe Chánh Pháp, thích lắng lời tà. Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng. Sáo đàn inh ỏi, Bảo Khúc Long Ngâm. Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái. Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ. Lời Kinh câu Kệ, không chút lắng tai. Thoảng nghe khen hảo, khấp khởi mong cầu. Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận. Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi. Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích. Hoặc gặp Thầy bạn, dạy bảo đinh ninh. Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc. Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm. Nghe nửa câu Kinh, liền như tai ngựa. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết. Sau khi mạng chung, rơi Ba Đường Ác. Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.
3. NGHIỆP CĂN MŨI là:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào. Chẳng thích chơn hương, Năm Phần Thanh Tịnh. Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi. Giới Định Hương Huân, chưa từng để mũi. Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài. Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói. Theo dõi hương trần, Long Thần chẳng nể. Chỉ thích mùi sằng, trọn không chán mỏi. Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa. Cây Giác Hoa Tâm, xoay đi không đoái. Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau. Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt. Chẳng ngại tanh hôi, không kiên hành tỏi. Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ. Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng. Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch. Hoặc say nằm ngủ, Điện Phật Phòng Tăng. Hai mũi thở hơi, xông Kinh nhơ tượng. Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm. Không biết không hay, đều do nghiệp mũi. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Sau khi mạng chung, đoạ Ba Đường Khổ. Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người. Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.
4. NGHIỆP CĂN LƯỠI là:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào. Chẳng thích chơn hương, Năm Phần Thanh Tịnh. Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi. Giới Định Hương Huân, chưa từng để mũi. Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài. Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói. Theo dõi hương trần, Long Thần chẳng nể. Chỉ thích mùi sằng, trọn không chán mỏi. Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa. Cây Giác Hoa Tâm, xoay đi không đoái. Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau. Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt. Chẳng ngại tanh hôi, không kiên hành tỏi. Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ. Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng. Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch. Hoặc say nằm ngủ, Điện Phật Phòng Tăng. Hai mũi thở hơi, xông Kinh nhơ tượng. Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm. Không biết không hay, đều do nghiệp mũi. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Sau khi mạng chung, đoạ Ba Đường Khổ. Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người. Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.
4. NGHIỆP CĂN LƯỠI là:
Tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở. Nếm hết các thứ, biết rõ béo gầy. Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình. Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú. Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông. Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu. Hoặc đến đàn chay, cầu thần lễ Phật. Cố cam bụng đói, đợi lúc tiệc xong. Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều. Giống hệt người đau, gắng nuốt thuốc cháo. Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan. Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi. Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con. Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi. Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm. Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi. Chửi mắng Tam Bảo, nguyền rủa Mẹ Cha. Khinh khi Hiền Thánh, lừa dối mọi người. Chê bai người khác, che dấu lỗi mình. Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ. Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo. Xua đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ. Lời dèm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn. Tô vẽ điều sai, nói không thành có. Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông. Tán dóc Tăng Phòng, ba hoa Phật Điện. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Ví như cát bụi, đếm không thể cùng. Sau khi mạng chung, vào Ngục Bạt Thiệt. Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi. Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh. Dù được làm người, lại bị câm bặt.
5. NGHIỆP CĂN THÂN là:
Tinh Cha huyết Mẹ, chung hợp nên hình. Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp. Chấp cho là thật, quên mất Pháp Thân. Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành BA NGHIỆP:
Tinh Cha huyết Mẹ, chung hợp nên hình. Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp. Chấp cho là thật, quên mất Pháp Thân. Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành BA NGHIỆP:
A. NGHIỆP SÁT SANH là: Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ. Giết hại Bốn Loài, đâu biết một thể. Lầm hại cố giết, tự làm dạy người. Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối. Hoặc làm thuốc độc, để hại sanh linh. Chỉ cốt hại người, không hề thương vật. Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối. Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim. Thấy nghe tùy hỷ, niệm dấy tưởng làm. Cử động vận hành, đều là tội lỗi.
B. NGHIỆP TRỘM CẮP là: Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà. Phá khoá cạy then, sờ bao mò túi. Thấy của Thường Trụ, lòng dấy khởi tham. Trộm của nhà chùa, không sợ Thần giận. Không những vàng ngọc, mới mắc tội to. Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm.
C. NGHIỆP TÀ DÂM là: Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son. Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục. Hoặc nơi đất Phật, Chánh Điện Phòng Tăng, Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn. Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai. Khoét ngoạch trèo tường, đều là dâm nghiệp. Những tôi như thế, vô lượng vô biên. Đến lúc mạng chung, đều vào địa ngục. Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng. Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo.
6. NGHIỆP CĂN Ý là:
Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, không lúc nào dừng. Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng. Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền. Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt. Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh. Não loạn tâm thần, đều do Ba Độc:
Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, không lúc nào dừng. Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng. Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền. Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt. Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh. Não loạn tâm thần, đều do Ba Độc:
A. TỘI KEO THAM là: Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ. Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ. Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy. Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy. Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét. Lụa là chất đống, nào có giúp ai. Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều. Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn. Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai. Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí. Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo. Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.
B. TỘI NÓNG GIẬN là: Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu. Quắc mắt quát to, tiêu tan hoà khí. Không riêng người tục, cả đến Thầy tu. Kinh luận tranh dành, cùng nhau công kích. Chê cả Sư Trưởng, nhiếc đến Mẹ Cha. Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy. Buông lời hại vật, cất tiếng hại người. Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm. Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu. Dù ở cửa Không, chưa thành Vô Ngã. Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây. Những tội trên đây, đều do nghiệp giận.
C. TỘI NGU SI là: Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm. Chẳng hiểu tôn ty, không phân thiện ác. Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay. Mắng Phật chuốc ương, phun Trời ướt mặt. Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân. Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp. Những tội như thế, rất nặng rất sâu. Đến lúc mạng chung, rơi vào Địa Ngục. Trải ngàn muôn kiếp, mới được thọ sanh. Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo. Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ. Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.
TỤNG TAM QUY - NGŨ GIỚI
TAM QUY
Chúng con nguyện suốt đời QUY Y PHẬT, QUY Y PHÁP, QUY Y TĂNG (1 lạy)
QUY Y PHẬT là: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là Bậc Thầy Giác Ngộ sáng suốt của chúng con.
QUY Y PHÁP là: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo Chánh Pháp từ Kim Khẩu Đức Phật nói ra.
QUY Y TĂNG: Chúng con trọn đời tôn thờ kính trọng, tu theo những Tăng sĩ tu hành đúng chánh pháp của Như Lai.
QUY Y PHẬT rồi, chúng con không kính trọng tu theo Trời, Thần, Quỷ, Vật. QUY Y PHÁP rồi, chúng con không kính trọng tu theo ngoại đạo, tà giáo. QUY Y TĂNG rồi, chúng con không kính trọng, làm thân với bạn dữ, nhóm ác.
NGŨ GIỚI
1. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG SÁT SANH. Nghĩa là chúng con không giết người bằng mọi cách, không sai bảo kẻ khác giết người. Cho đến những con vật lớn hay nhỏ, chúng con cũng không nhẫn tâm giết hại; mà hằng bảo vệ sanh mạng chúng sanh.
2. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP. Nghĩa là chúng con thấy tài sản, vật dụng của người, không khởi lòng tham, lén lấy hay giật lấy; mà luôn luôn bảo vệ tài sản của người như tài sản của mình.
3. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG TÀ DÂM. Nghĩa là chúng con chỉ một vợ một chồng, chớ không có lòng mê hoa đắm sắc, làm điều tà vạy, gây đau khổ cho gia đình mình và gia đình người; mà hằng tán thán ca ngợi đời sống trinh bạch.
4. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI. Nghĩa là chúng con không do lòng tham nói lời dối trá lừa bịp người, không do lòng nóng giận nói lời hung dữ khiến người buồn giận, không do lòng hiểm ác nói lời vu oan, vu cáo khiến người bị khó khăn tù tội; mà hằng nói lời chân thật ngay thẳng.
5. Chúng con nguyện trọn đời giữ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU. Nghĩa là chúng con không uống các thứ rượu mạnh và nhẹ khiến tâm trí rối loạn mờ tối, thân thể sanh nhiều bệnh hoạn, chuốc lỗi lầm với thân nhân và quyến thuộc; cho đến các thứ á phiện, xì ke, ma tuý thảy đều tránh xa. Cúi xin Tam Bảo hộ trì khiến chúng con đầy đủ nghị lực, gìn giữ NĂM GIỚI trong sạch để được là người tốt trong đời này và đời sau.
Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhứt Thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
Sắc thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch Ba Nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Đồng sanh nước An Lạc.
Án phạ nhựt ra vật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thường Tịch Quang Tịnh Độ A MI ĐÀ Như Lai - Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thật Báo Trang Nghiêm Độ A MI ĐÀ Như Lai - Thân Tướng Hải Vi Trần Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Phương Tiện Thánh Cư Độ A MI ĐÀ Như Lai - Thân Trang Nghiêm Giải Thoát Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây A MI ĐÀ Như Lai - Thân Căn Giới Đại Thừa Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây A MI ĐÀ Như Lai - Thân Hóa Đến Mười Phương Khắp Pháp Giới Chư Phật (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây GIÁO, HẠNH, LÝ Ba Kinh - Tột Nói Bày Y, Chánh Khắp Pháp Giới Tôn Pháp (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát - Thân Tử Kim Muôn Ức Khắp Pháp Giới Bồ Tát (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây ĐẠI THẾ CHÍ Bồ tát - Thân Trí Sáng Vô Biên Khắp Pháp Giới Bồ Tát (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc Phương Tây THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG - Thân Hai Nghiêm Phước, Trí Khắp Pháp Giới Thánh Chúng (1 lạy)
Con nay khắp vì Bốn Ơn, Ba Cõi cùng chúng sanh trong Pháp Giới, đều nguyện dứt trừ Ba Chướng nên Quy Mạng Sám Hối (1 lạy)
Con từ vô thỉ đến nay Sáu Căn che mù, Ba Nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. Kinh rằng: Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật Pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các Đức Phật và A MI ĐÀ Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng Pháp Giới chúng sanh, tất cả tội nặng do Ba Nghiệp Sáu Căn gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Đệ tử sám hối rồi, Sáu Căn cùng Ba Nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh Độ khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An Dưỡng. Nguyện Đức A MI ĐÀ Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh Độ, đến giờ lâm chung thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy Đức A MI ĐÀ cùng các Thánh Chúng tay cầm Đài Hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Con từ vô thỉ đến nay Sáu Căn che mù, Ba Nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. Kinh rằng: Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật Pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các Đức Phật và A MI ĐÀ Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng Pháp Giới chúng sanh, tất cả tội nặng do Ba Nghiệp Sáu Căn gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Đệ tử sám hối rồi, Sáu Căn cùng Ba Nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh Độ khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An Dưỡng. Nguyện Đức A MI ĐÀ Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh Độ, đến giờ lâm chung thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy Đức A MI ĐÀ cùng các Thánh Chúng tay cầm Đài Hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A MI ĐÀ Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo (1 lạy)
Niệm Phật là nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét