Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

48 ĐẠI NGUYỆN

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa

                                                                                                       
TỨ THẬP BÁT NGUYỆN
Kinh Vô Lượng Thọ Phật - Việt dịch H/T. Vạn Đức
  1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  2. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại Ba Ác Đạo thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  3. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân Màu Vàng Ròng thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  4. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  5. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng biết Túc Mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  6. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng được Thiên Nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước Chư Phật thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  7. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng được Thiên Nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết Pháp của trăm ngàn ức na do tha Chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  8. Giả sư khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng được Tha Tâm Trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  9. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng được Thần Túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  10. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  11. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ Định Tụ quyết đến Diệt Độ thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  12. Giả sử khi tôi thành Phật, Quang Minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước Chư Phật thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  13. Giả sử khi tôi thành Phật, Thọ Mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  14. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  15. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi Thọ Mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại.  Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  16. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ Bất Thiện thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  17. Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng Chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng Danh Hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  18. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương Chí Tâm Tin Ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến Mười Niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  19. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ Đề Tâm, tu các công đức Chí Tâm Phát Nguyện muốn sanh về nước tôi.  Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  20. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe Danh Hiệu của tôi, Chuyên Nhớ nước tôi, trồng những Cội Công Đức, Chí Tâm Hồi Hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  21. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ Ba Mươi Hai Tướng Đại Nhơn thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  22. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực Nhứt Sanh Bổ Xứ.  Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc Giáp Hoằng Thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu Hạnh Bồ Tát, cúng dường Chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi Đạo Chánh Chơn Vô Thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu Công Đức Phổ Hiền.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác. 
  23. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường Chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  24. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi ở trước Chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  25. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói Nhứt Thiết Trí thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  26. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng được Thân Kim Cương Na La Diên thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  27. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có Thiên Nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  28. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết Cây Đạo Tràng thọ Màu Sáng Vô Lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  29. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết Kinh Pháp mà chẳng được Trí Huệ Biện Tài thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  30. Giả sử khi tôi thành Phật, Trí Huệ Biện Tài của Bồ Tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  31. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới Chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  32. Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng Vô Lượng Châu Báu, Trăm Ngàn Thứ Hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng Thiên nhơn.  Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương.  Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu Hạnh Phật.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  33. Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được Quang Minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyễn hơn hẳn hàng Thiên nhơn.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  34. Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe Danh Hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát Vô Sanh Pháp Nhẫn các Thâm Tổng Trì thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  35. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương Nghe Danh Hiệu tôi Vui Mừng Tin Ưa phát tâm Bồ Đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  36. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương nghe Danh Hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu Phạm Hạnh đến thành Phật Đạo.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  37. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe Danh Hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy, Vui Mừng Tin Ưa tu Hạnh Bồ Tát thì được Chư Thiên và người đời đều kính trọng.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  38. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi muốn được Y Phục liền tùy nguyện hiện đến, Y Phục Đẹp đúng Pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân.  Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  39. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực Lậu Tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  40. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những Cây Báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  41. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các Căn Thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  42. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác Nghe Danh Hiệu tôi thảy đều chứng được Thanh Tịnh Giải Thoát Tam Muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị Chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm Chánh Định.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  43. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  44. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi Vui Mừng Hớn Hở tu Hạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  45. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi thảy đều chứng được Phổ Đẳng Tam Muội, an trụ trong Tam Muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả Chư Phật.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  46. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe Pháp liền tự nhiên được nghe.  Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  47. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực Bất Thối Chuyển thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
  48. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe Danh Hiệu tôi mà chẳng liền được Đệ Nhứt Nhẫn, Đệ Nhị Nhẫn và Đệ Tam Pháp Nhẫn, nơi các Phật Pháp chẳng liền được bực Bất Thối Chuyển thì tôi chẳng lấy Ngôi Chánh Giác.
Niệm Phật nhân - Thành Phật là quả - Niệm Phật thành Phật

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

HƯƠNG SEN VẠN ĐỨC - P/1

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa


TẠI SAO LẠI NIỆM
NAM MÔ A MI ĐÀ PHẬT?
Trích dẫn Khai Thị Niệm Phật của H/T. Thích Trí Tịnh

Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc).  Hai chữ đầu "Nam mô" nguyên âm là Namo ta quen đọc liền vần Nam mô là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).  Chữ thứ sáu "Phật" nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô) ta quen đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (Đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).  Ba chữ giữa "A MI ĐÀ" là biệt danh của đấng Cực Lạc Giáo Chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ) Như trong Kinh, Đức Bổn Sư tự giải thích rằng:
"Đức Phật ấy quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở Mười Phương không bị cách ngại.  Đức Phật Ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên  vô số kiếp".

Trong Quán Kinh nói:
"Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tôi sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh"...

Trong Kinh Chư Phật Hộ Niệm nói:
"Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều Thiện Căn Phước Đức.  Đức Phật ấy và Thánh Chúng sẽ hiện đến nghênh tiếp"...

Kinh Văn Thù Bát Nhã nói:
"Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam Muội và chóng thành Phật"...

Xem như lời của Đức Bổn Sư THÍCH CA, đấng chân thật ngữ phán trên đây thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của Đức Giáo Chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị.  Muốn được kết quả to tát như lời trong Kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp goi Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.  Ba chữ A MI ĐÀ nguyên là Phạn âm.  Người Tàu đọc là "A-MI-THÔ" và họ tụng xuôi là "Á-MI-THỒ".  Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho Kinh sách Tàu.  Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là "A-DI-ĐÀ".  Như đọc Nã Phá Luân để kêu Hoàng đế Napoleon, cùng đọc Ba-Lê để kêu kinh đô Paris.  Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa.  Gía như ta gặp hoàng đế Pháp mà gọi ông ta là Nã Phá Luân  thời thật là đáng buồn cười.  Với A DI ĐÀ để gọi Đức Giáo Chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.

Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A DI ĐÀ Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm.  Giữa lúc đó tiếng “DI” là chủ của sự chướng.  Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của Sáu Tiếng Hồng Danh.  Đồng thời lời của Tổ Vân Thê trong sớ sao nói: "Hồng danh Nam mô A MI ĐÀ Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với Pháp trì chú của Mật Tông đồng nhau" lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.  Với vần La Tinh, người Anh ghép "AMITA" mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Tự Điển.  Tôi đem ba chữ "A-MI-ĐÀ" ra hỏi, thời các Sư Tàu cũng như Cư Sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi: "A-MI-THÔ".  Hai tiếng đầu “A” và “MI” đã nhất định và đồng thời quyết chắc đọc “DI” là sai.  Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu đọc "A-MI-TA" như vần Anh, cùng "A-MI-THÔ" như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện: 1. Nghe không nghiêm và không êm., 2. Khác với thông lệ từ xưa.

Một học giả Bali và Phạn ngữ giải thích: chữ “ĐÀ”  của tàu dùng phiên âm Phạn Ngữ có hai giọng: 1. "THÔ" như danh từ "BỤT-THÔ" mà người tàu đọc xuôi là "BÙ-THỒ"., 2. "ĐA" cũng như danh từ "BỤT-ĐA" (Buddha).  Với giọng "ĐA" để đọc chữ "THÔ" nó mở đường cho tôi ghép 3 chữ lại: "A-MI-ĐA" và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền "A-MI-ĐÀ".  Ghép luôn cả sáu tiếng Nam mô A MI ĐÀ Phật tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên âm dù vẫn chưa được  hoàn toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi "DI" thành "MI" mà thôi.  Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nam mô A MI ĐÀ Phật và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả:
1. Sáu Tiếng Hồng Danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng "DI" trong thời trước.
2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhạy, càng chuyên, càng lanh.  Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.
3. Niệm ra tiếng với "A-MI" khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của "A-DI" khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.

Người chuyên niệm danh hiệu Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức "Bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục".  Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên.  Còn  nếu trái lại thời mới có hy vọng đến đích.  Biết rằng niệm A MI ĐÀ được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghì, diệt vô số kiếp tội thành Đại Thiện Căn Phước Đức giống như Pháp Trì Chơn Ngôn (Thần Chú) của Mật Tông mà Tổ Vân Thê đã phán.  Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm.  Nhất là niệm "A-MI-ĐÀ" được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều.  Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm.  Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm.  Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của Đức Giáo Chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật.  Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.  

Nhưng trong kỳ Kiết Thất 49 ngày ở tịnh thất nơi Chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ mình dù thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng Giới và cũng có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại gì, song rồi đây tất có người tin tưởng nơi mình mà họ sẽ tự noi theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A MI ĐÀ Phật.  Một người như thế lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi điều thắc mắc:
1. Bàng quang sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.
2. Đem sự ngờ vực cho người đã niệm "A-DI-ĐÀ" khi những người này chưa hiểu thế nào là "A-DI" và thế nào là "A-MI".  Và sự ngờ là điều rất chướng của Pháp Môn Miệm Phật.

Tôi tự giải thích, cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi).  Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với chuyên thị phi phê bình của bàng quan.  Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình.  


Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.  Chiều hôm ấy khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-MI nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm.  Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-MI vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn... Tối hôm ấy tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp.  Giữa vườn một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A-MI-ĐÀ Phật!  Tôi tự bảo: Ủa lạ!  Câu Nam mô A-MI-ĐÀ Phật tưởng là chỉ của riêng mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm.  Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi!  Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh.  Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.  Do hai điềm trên đây, bao nhiêu nổi thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh nắng trưa hè.  Từ hồi nào dù với hàng đệ tử, tôi chưa từng bảo ai bỏ niệm "A-DI" mà niệm "A-MI".  Song do ảnh hưởng ngấm ngầm mà lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm "A-MI-ĐÀ".  Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế!  Và cũng vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.


Tôi viết bài này chỉ với mục đích gíup thêm sự nhận chơn về câu Nam mô A MI ĐÀ Phật cùng lịch sử của nó cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế.  Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi các bạn đây thôi.  Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A DI ĐÀ Phật nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các vị nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải.

Niệm Phật một câu phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa