Thứ Năm, 28 tháng 7, 2011

SỰ THỌ SANH

Niệm Phật một câu, phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy, tội diệt hà sa


SỰ THỌ SANH
Trích dẫn PHẬT HỌC TINH YẾU - Thiên Thứ Hai
Cố H/T. Thích Thiền Tâm
SANH VỀ ÁC ĐẠO
Con người khi sắp chết, thân tâm hôn muội như ngủ mà không có chiêm bao.  Lúc ấy minh liễu ý thức không hiện khởi, không thể biết được cảnh sở duyên của Sáu Chuyển Thức, đó là Tán Hữu Tâm cũng gọi Sanh Tử Tâm.  Bấy giờ do Nghiệp lành dữ, thân phần lần lần lạnh, chỗ nào còn nóng sau rốt, là thần thức ra nơi đó.  Có bài tụng rằng:
“Đảnh sanh cõi Thánh mắt sanh Trời.  Bụng nóng Ngạ Quỷ, tim nóng Người.  Bàng Sanh thần thức ra đầu gối.  Nóng ở bàn chơn Địa Ngục thôi!”  (Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận)
Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào loài Bàng Sanh, thì có những tiên triệu như sau:
1.  Thân mang bịnh nặng tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù
2.  Sợ nghe danh hiệu Phật, không chịu ai khuyên bảo điều lành
3.  Ưa thích mùi cá thịt
4.  Quyến luyến vợ con, đắm đuối không bỏ
5.  Các ngón tay và chơn đều co quắp
6.  Cả mình toát ra mồ hôi
7.  Khóe miệng chảy ra nước
8.  Tiếng nói khò khè hoặc rít róng khó nghe
9.  Miệng thường ngậm đồ ăn.
Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào đường Ngạ Quỷ, thì có những tiên triệu như sau:
1.  Thân mình nóng như lửa
2.  Lưỡi luôn luôn liếm môi
3. Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến việc ăn uống
4.  Miệng hả ra không ngậm lại
5.  Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết
6.  Mắt thường trương lên mà không nhắm
7.  Đôi mắt khô khan như mắt chim gỗ
8.  Không có tiểu tiện nhưng đại tiện thì nhiều
9.  Đầu gối bên mặt lạnh trước
10.  Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng bỏn sẻn
11.  Lúc tắt hơi hai mắt vẫn mở.
Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào nẻo Địa Ngục, thì có những tiên triệu như sau:
1.  Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét
2.  Đưa tay lên quờ quạng hư không
3.  Đi đại tiểu tiện không tự biết
4.  Thân thường có mùi hôi hám
5.  Nằm úp mặt xuống hoặc che giấu mặt mày
6.  Hai mắt đỏ ngầu
7.  Nằm co về bên trái
8.  Xương lóng đau nhức
9.  Thiện tri thức dù có chỉ bảo, họ cũng không tùy thuận
10.  Nhắm nghiền đôi mắt không mở
11.  Mắt bên trái hay động đậy
12.  Sống mũi xiên xẹo
13.  Gót chân đầu gối luôn luôn run rẩy
14.  Thấy ác tướng vẻ mặt sợ sệt mà nói không được, hoặc sảng sốt kêu la bảo là quỷ hiện
15.  Tâm thức rối loạn
16.  Cả mình giá lạnh, tay nắm lại, thân thể cứng đơ.  (Kinh Thủ Hộ Quốc Giới)
Thân Trung Ấm nào sắp sanh về cõi A Tu La, thì sẽ thấy có những vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn chuyển xoay.  Nếu thấy cảnh tượng ấy sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là thác sanh vào nẻo nầy.
Trung Ấm nào sắp đọa vào loài chó lợn thường thấy nhiều cô gái đẹp, mình ưa thích chạy theo; do nhân duyên đó mà bị thác thai.  Trung Ấm nào sắp đọa vào các loài Bàng Sanh khác, cảm thấy có luồng gió mãnh liệt cuốn lôi không tự cưỡng lại được, hoặc thấy vô số Quỷ Thần cầm binh trượng đuổi theo hoặc thấy lửa cháy lan tới rần rần, sấm sét phủ đầu dữ dội, sương mù phủ giăng mịt mịt, núi lở biển dậy ầm ầm, tự mình sợ hãi chạy vào rừng bụi, hang đá mà lẩn trốn; hoặc đang khi ấy thấy ba cái hố trắng, đỏ, đen, liền nhào xuống mà ẩn thân.  Do nhân duyên đó bị thọ sanh vào dị loại như hùm, beo, nai, chồn, rắn, rít...
Những Trung Ấm nào sắp đọa vào đường Ngạ Quỷ thì tự thấy, có một bãi sa mạc rộng lớn mênh mông không cây cối, hoặc chỉ có những hang hố cỏ cây khô héo.  Lúc ấy tự mình bị sức Gió Nghiệp đưa đến đó, liền thác sanh vào Ngạ Quỷ đạo, chịu nhiều sự nóng bức, đói khát khổ sở vô cùng!
Trung Ấm nào sắp sanh vào Địa Ngục bỗng nghe những khúc ca hết sức bi ai buồn thảm, thấy cảnh giới mù mịt tối tăm, nhà cửa sắc đen hay trắng, hoặc thấy hang hố sâu thẳm, đường sá lờ mờ.  Lúc ấy chính mình bị quỷ xua đuổi vào trong đó, khi vào rồi thì thân không được tự do, liền bị thác sanh.  Trung-ấm nào sắp đọa vào Ngục Hàn Băng, do Sức Nghiệp bỗng nhiên thân thể nóng bức không kham, gặp hơi lạnh ở Hàn Ngục xông lên, tự cảm thấy mát mẻ dễ chịu, khởi lòng ưa thích vội vã bay xuống nơi đó, lúc ấy liền bị thác sanh.  Trung Ấm nào sắp đọa vào Ngục Viêm Nhiệt, do Sức Nghiệp, bỗng nhiên thân thể giá rét không kham, gặp hơi nóng ở Hỏa Ngục xông lên, tự cảm thấy ấm áp dễ chịu, khởi lòng ưa thích vội vã bay xuống nơi đó, lúc ấy liền bị thọ sanh.  Trung Ấm nào sắp đọa vào Ngục Phẩn Uế, do Sức Nghiệp, bỗng cảm thấy một mùi thơm ngạt ngào chịu không kham, bấy giờ trong tâm ước ao muốn tìm nơi có mùi hôi thúi để đánh át bớt mùi thơm đó; bởi nhân duyên ấy mà bị thọ sanh.
Lại Trung Ấm nào thấy Ánh Sáng màu Lục lờ mờ, ưa thích đi vào đó, liền thác sanh về cõi A Tu La.  Trung Ấm nào thấy Ánh Sáng màu hơi Xanh, ưa thích đi vào đó, liền bị thọ thân Bàng Sanh.  Trung Ấm nào thấy Ánh Sáng màu hơi Đỏ, ưa thích đi đến đó, liền thác sanh vào loài Ngạ Quỷ.  Trung Ấm nào thấy Ánh Sáng mờ đục như khói Đen, ưa thích đi đến đó, liền thác sanh vào nẻo Địa Ngục.  (Tạp Sự Lục)
Đức Phật bảo Đại Dược Bồ Tát:
"Những chúng sanh tạo Nghiệp Ác, sắp đọa vào Nại Lạc Ca, tự nhiên có lòng buồn thảm kinh sợ tùy theo Bản Nghiệp thấy hình tướng của các thứ Địa Ngục, khi thần thức lìa thân liền sanh vào nơi đó.  Hoặc có kẻ thấy phương khác có dáng đỏ tươi dường như máu rưới, liền sanh lòng nhiễm trước, do nhân duyên đó mà thọ sanh".  


Bấy giờ Ngài Bạt Đà La Bà Lê thưa:  Bạch Thế Tôn!  Các chúng sanh ở Nại Lạc Ca thân hình có những màu sắc gì?  Sự thọ thân như thế nào?  Đức Phật bảo:
"Nếu chúng sanh nào nhiễm trước chỗ máu, thì thân thể Đỏ như sắc máu.  Nếu chúng sanh nào nhiễm trước sông Tỳ La Ni (Nan Độ Hà), thì thân thể như sắc mây không trắng không đen.  Nếu chúng sanh nào nhiễm trước khôi hà, thì thân thể có sắc vằn.  Chúng sanh ở những nơi đó thọ thân to lớn, cao tám chẩu rưỡi, râu ria cùng tóc rất dài, bàn chơn hướng về phía sau.  Giả sử người ở cõi Diêm Phù được trông thấy hình tướng ghê gớm của các chúng sanh ấy, cũng phải kinh sợ mà chết!"  (Kinh Đại Bảo Tích). 


SANH VỀ THIỆN ĐẠO
Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lại cõi người thì có những tiên triệu như sau:
1.  Thân không bịnh nặng
2.  Khởi niệm lành, sanh lòng hòa dịu, lòng vui vẻ vô tư, ưa việc Phước Đức
3.  Ít sự nói phô, nhớ nghĩ đến Cha Mẹ vợ con
4. Đối với việc lành hay dữ, tâm không lầm loạn 
5. Sanh lòng tịnh tín, thỉnh Tam Bảo đến đối diện Quy Y
6.  Con trai con gái đều đem lòng thương mến và gần gũi, coi như việc thường
7.  Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bè bạn 
8.  Tâm chánh trực không dua nịnh
9.  Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, khi thấy bà con săn sóc sanh lòng vui mừng
10.  Dặn dò giao phó các việc lại cho thân quyến, rồi từ biệt mà đi.
Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lên cõi Trời, thì có những tiên triệu như sau:
1.  Sanh lòng thương xót  
2.  Phát khởi tâm lành
3.  Lòng thường vui vẻ
4.  Chánh Niệm hiện ra
5.  Đối với tiền của vợ con không còn tham luyến
6.  Đôi mắt có vẻ sáng sạch
7.  Ngước mặt trông lên miệng mỉm cười, hoặc tai nghe Thiên Nhạc, mắt thấy Thiên Đồng
8.  Không có những sự hôi hám
9.  Sống mũi không xiên xẹo
10.  Lòng không giận dữ.
Người nào lúc bình thời giữ Giới niệm Phật không được tinh tấn khi sắp chết không có các tướng lành dữ, nhắm mắt đi xuôi như người ngủ; kẻ ấy nghi tình chưa dứt, sẽ sanh về nghi thành ở biên phương Tịnh Độ.
Người nào khi lâm chung biết ngày giờ trước, Chánh Niệm rõ ràng, tự tắm gội thay đổi y phục, hoặc thấy Quang Minh chiếu thân, hoặc thấy Tướng Hảo của Phật, các điềm lành hiển hiện, kẻ ấy sẽ sanh về cõi Tịnh Độ.  (Kinh Thủ Hộ Quốc Giới)
Chúng hữu tình ở Ba Đường Ác, khi Nghiệp hết, nếu có Túc Phước cũng được sanh ngay trên cõi Trời, như loại Bàng Sanh, lúc mạng chung sắp chuyển sanh lên Thiên Cung, tự thấy có ánh sáng rực rỡ, lòng si nhẹ bớt, trí tuệ mở mang, trong lòng an vui, liền thoát hóa về Thiên Giới.  Các Ngạ Quỷ lúc mạng chung sắp sanh lên cõi Trời, tự có cảm giác không còn đói khát, tuy thấy các thức ăn uống, chỉ lấy mắt mà nhìn, nơi tâm vui vẻ, liền được thọ sanh.  Chúng Sanh ở Địa Ngục khi Nghiệp hết sắp sanh lên Thiên Cung thì đang lúc bị các hình phạt như: Quỷ tốt đánh đập, bỏ vào vạc dầu sôi, để trên giường sắt nóng, hay trong khi chim sắt, ác thú cắn mổ liền chết ngay không còn sống lại.  Bấy giờ, tự nghe thấy Chư Thiên múa hát cười nói, cảm biết gió thơm thổi vào mình, liền được thọ sanh.
Các hữu tình khi mạng chung, Thân Trung Ấm đang bơ vơ không nơi nương tựa, thì lúc ấy có ánh sáng yếu ớt của lục phàm soi đến.  Tùy theo Nghiệp duyên thân Trung Ấm sẽ sanh về cõi nào luồng ánh sáng của đạo ấy càng rực rỡ hơn lên.  Ánh sáng của Tứ Ác Đạo như trước đã nói, còn ánh sáng của nẻo Trời thì hơi Trắng, ánh sánh của nẻo người thì hơi Vàng.
Lại nữa, các cõi Phật ở Mười Phương cũng phóng ra những Hào Quang rực rỡ và mạnh như:  Hào Quang sắc Xanh chói lòa, Hào Quang sắc Trắng trong sạch, Hào Quang sắc Vàng bóng suốt như ngọc, Hào Quang sắc Đỏ mãnh liệt.  Như thế có rất nhiều thứ Hào Quang của Chư Phật chói suốt lẫn nhau.  Nhưng vì Nghiệp Lực, nên Thân Trung Hữu sợ hãi những Hào Quang mãnh liệt của Chư Phật đã soi đến, mà chỉ ưa thích những Hào Quang yếu ớt trong Lục Đạo.  Vì thế nên chúng sanh thường bị xoay vần quanh nẻo Luân Hồi, chịu nhiều điều khổ não
Loài người hiện tại khi mạng chung sắp sanh trở lại Châu Nam Thiệm Bộ, trước tiên thấy có tòa núi to như muốn rớt trên mình, tự đưa tay ra đỡ.  Liền khi ấy, lại thấy tòa núi đó đổi hình lại như giãi nệm Trắng, chính mình ngồi nơi niệm ấy mà bay đi.  Trong khi bay lên, lại thấy nệm hóa ra màu Đỏ.  Kế đó, lại thấy ánh sáng, trong ánh sáng có nam nữ hội hiệp.  Nếu sẽ sanh làm thân nam, thì tự thấy mình cùng Mẹ giao hiệp, đối với Cha cho là chướng ngại, có lòng ghét; như sẽ sanh làm thân nữ thì trái lại.  Bấy giờ hốt nhiên tướng Trung Ấm diệt liền vào thai.
Chúng hữu tình ở Châu Nam Thiệm Bộ sắp sanh về Châu Đông Phất Bà Đề, khi lâm chung thấy tất cả đều là màu Xanh, có một giải nệm Nanh rũ xuống, lúc ấy do sợ giải nệm Xanh rớt, tự đưa hai tay lên đỡ lấy, vẻ mặt dường như có sắc kinh hãi.  Kế đó lại thấy một cái hồ, bầy ngựa chạy giỡn trên bãi cỏ, Cha là ngựa đực, Mẹ là ngựa cái.  Nếu Trung Ấm sẽ sanh làm người nam, thì tự thấy mình là ngựa đực, đối với cha sanh lòng ghét, với Mẹ sanh lòng yêu.  Như Trung Ấm sẽ sanh làm người nữ, thì tự thấy mình là ngựa cái, đối với Cha yêu mến, với Mẹ lại ganh ghét.  Lúc ấy liền được thọ sanh.  Chúng hữu tình ở Châu Nam Thiệm Bộ khi lâm chung sắp sanh về Châu Tây Cù Đà Ni, thì trước tiên thấy một giãi nệm Vàng vây quấn, nhà cửa đều biến thành sắc Vàng.  Kế đó lại thấy một cái hồ, bốn bên bờ có trâu gặm cỏ, thân mình là trâu, Cha là trâu đực, Mẹ là trâu cái.  Lúc ấy tùy Nghiệp Duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối với Cha hoặc Mẹ sanh lòng điên đảo yêu ghét.  Bấy giờ liền được thọ sanh.  Chúng hữu tình ở Châu Nam Thiệm Bộ khi lâm chung sắp sanh về Châu Bắc Uất Đan Việt, trước tiên thấy một giải nệm Đỏ mịn màng, trong lòng ưa thích đưa tay khuấy động như muốn tiếp lấy.  Kế lại trông thấy một hồ sen Xanh, các loài Bạch Nga, Hồng Nhạn, Uyên Ương lội đùa trên mặt nước, mình cũng vào đó chơi giỡn.  Khi ở dưới hồ bước lên, vừa lúc Cha Mẹ dục nhiễm bất tịnh, do Nghiệp điên đảo thấy mình là chim ngỗng, Cha là ngỗng trống, Mẹ là ngỗng mái.  Bấy giờ tùy Nghiệp Duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối với Cha Mẹ sanh lòng điên đảo ghét yêu.  Trong khi đó liền được thọ sanh.  Chúng hữu tình ở Đông, Tây, Bắc Châu, từ nơi đây sanh nơi kia, khi lâm chung thấy trong hang tối có lá phướn dài rũ xuống:  ánh sáng như làn điển Đỏ.  Lúc ấy tự mình nắm phăng theo ngọn phướn đi vào, mà thọ Trung Ấm Thân.  Còn các tướng sanh về châu nào thì tùy mỗi nơi hoặc thấy hai con ngựa, hai con trâu, hai chim ngỗng như trước.  


Chúng hữu tình ở Châu Nam Thiệm Bộ, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, trước tiên thấy một giải nệm Trắng tế nhuyễn rũ xuống như muốn rớt, lại trông thấy các tướng vườn cây, ao hoa, Chư Thiên múa hát.  Lúc đó dù quyến thuộc có than khóc kêu gọi, do bởi Phước Nghiệp, kẻ ấy cũng không nghe biết, chỉ ngửi thấy mùi thơm, nghe tiếng âm nhạc, trong lòng vui vẻ không còn nhớ nghĩ chi cả, liền được thiện chung.  Chúng hữu tình ở Châu Phất Bà Đề, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, tự thấy cung đền nghiêm đẹp, xung quanh có Thiên Tử, thiên Nữ đang vui vẻ nhàn du.  Lúc đó trong lòng sanh hoan hỷ, tự có cảm giác như người mới thức dậy.  Bấy giờ liền được thọ sanh.  Chúng hữu tình ở Châu Cù Đà Ni, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, trước tiên thấy nước chảy xao xuyến trong ao đầm rộng lớn.  Lúc ấy thần thức nương theo ngọn nước trôi qua đến bờ bên kia.  Kế đó lại thấy các Thiên Nữ xinh đẹp, tự mình chạy đến mà ôm.  Khi ấy chính là lúc hóa sanh.  Chúng hữu tình ở Châu Uất Đan Việt, khi sanh lên cõi Trời, có nhiều tướng trạng.  Nếu là người Phước Đức bậc hạ, thì lúc lâm chung, mũi ngửi mùi thơm lạ, mắt thấy hoa quí đẹp, trong lòng ưa thích muốn leo lên cây cao.  Đang khi leo cây chính là lúc Trung Ấm bay lên núi Tu Di.  Khi đến nơi liền thấy thế giới của Chư Thiên, cung điện vườn hoa, tất cả đều trang nghiêm xinh đẹp.  Lúc ấy tùy theo nhân nhơn duyên kẻ đáng làm Cha Mẹ mà hóa sanh.  Như kẻ Phước Đức bậc trung, thì khi lâm chung thấy có bầy ong vần vũ xung quanh một hoa sen trong hồ, tự mình bước lên hoa sen ấy, bay đến thiên cung.  Lúc ấy tùy nơi nhân duyên của kẻ đáng làm Cha Mẹ mà hóa sanh.  Còn người Phước Đức bậc thượng, thì khi lâm chung thấy cung điện tốt đẹp trang nghiêm, Thân Trung Hữu nương nơi cung điện ấy mà bay lên hóa sanh nơi Thiên Giới.  Chư Thiên khi thọ chung sắp sanh lại cõi Trời, tự thấy các đồ trang nghiêm nơi thân không mất, không có vị Thiên Tử nào ngồi ở bản tòa của mình.  Lúc ấy tự thân bỗng diệt rồi lại sanh, như ngọn đèn tắt rồi lại cháy.  Nếu sanh lên cõi Trời cao hơn, thì có những tướng trạng thù thắng đáng mến.  Như sanh xuống cõi Trời thấp hơn, thì thấy vườn cây ao đều không bằng khi trước, tự có cảm niệm u buồn đói khát, lúc đó liền hóa sanh.  (Kinh Chánh Pháp Niệm, Tạp Sự Lục)
Bấy giờ, Đại Dược Bồ Tát hỏi Phật rằng:  Bạch Thế Tôn!  Loài hữu tình sau khi mạng chung, tướng trạng thọ Thiên Thân như thế nào?  Đức Phật bảo:
"Nầy Đại Dược!  Những chúng sanh có Phước Nghiệp khi sắp sanh lên Thiên Giới, thì có Thiên Nhãn, thấy được Y Báo và Chánh Báo ở cõi Lục Dục.  Chúng sanh đó thấy nhiều cung điện tốt đẹp, ao hoa, vườn cây quí lạ, rừng hoan hỷ....  Nơi ấy có những tòa cao trải lót bằng Thiên Y cùng vô lượng sự trang nghiêm khác.  Chư Thiên vị nào cũng xinh đẹp, trang sức bằng hoa tai, vòng xuyến, chuỗi anh lạc.  Những Thiên Tử và Ngọc Nữ dạo chơi khắp các nơi, đối nhau tươi cười.  Lúc thấy các tướng như thế, chúng sanh ấy tự nhiên sanh lòng vui mừng.  Khi người đó mạng chung, tâm không điên đảo, mũi không xiên vẹo, miệng không có mùi hôi, tai và mắt giống như sắc Hoa Sen Xanh, thân thể không chảy máu cũng không ra đồ bất tịnh, tay chân không co rút.  Lại khi lâm chung, kẻ ấy hoặc thấy xe kiệu tốt đẹp hiện ra trước.  Xe đó rộng lớn có đến ngàn cây cột, trang nghiêm bằng hoa thơm, chuỗi ngọc, lưới châu, linh báu.  Từ nơi bảo linh phát ra các tiếng nhiệm mầu.  Mùi hương bay lan phưởng phất.  Vô lượng Thiên Đồng cũng theo xe đi đến.  Khi thấy các tướng trạng như thế, người ấy thân tâm vui vẻ, yên ổn mà xả thân."  (Kinh Đại Bảo Tích)
Chư Thiên cõi Lục Dục khi mới sanh, tùy theo Thiên Giới cao thấp, thân hình có lớn nhỏ sai biệt, hoặc như đứa bé năm, sáu, bảy tuổi, hoặc như đứa bé tám, chín, mười tuổi.  Sau khi hóa sanh, Thiên Đồng cảm thấy đói khát, liền có các vị tô đà, cam lộ, đựng trong bảo khí hiện ra.  Lúc đó tùy theo Phước Báo ít nhiều, tự mình thấy thức ăn có những sắc hoặc Trắng, Vàng, Đỏ khác nhau.  Khi ăn uống xong, thân thể hóa hiện trang nghiêm, cao lớn.  Thường thường Thiên Nam hóa sanh ở đầu gối bên trái của Mẹ.  Hoặc có khi Chư Thiên nam, nữ đều hóa sanh ở đóa hoa nơi tay của Thiên Mẫu.  Chư Thiên cõi Sắc khi mới sanh, Thiên Tướng liền viên mãn, không trải qua sự ăn uống.  Tất cả thiên chúng đều tự biết Thánh Ngữ, không cần học tập.  (Luận Thuận Chánh Lý)
Chư Thiên khi sắp mạng chung có Năm Tướng tiểu suy:
1.  Y phục và đồ trang nghiêm như vòng xuyến, chuỗi anh lạc, kêu vang ra tiếng không được thanh tao êm dịu.  
2.  Ánh sáng nơi thân hốt nhiên mờ yếu.  
3. Khi tắm, gội, các giọt nước dính đọng nơi mình.  
4. Tánh tình thường thung dung phóng khoáng, nay bị trệ lại một cảnh.  
5.  Mắt luôn luôn máy động, không được trong lặng như mọi khi.  


Nhưng Năm Tướng nầy hiện ra cũng có khi nhằm trường hợp khác, không phải nhất định là sẽ chết.  Kế đó lại có Năm Tướng Đại Suy:  
1.  Y phục dính bụi.  
2.  Vòng hoa trên đầu rũ héo.  
3.  Hai nách chảy ra mồ hôi.  
4.  Thân có mùi hôi bay ra.  
5.  Không ưa chỗ ngồi của mình.  
Lúc năm tướng nầy hiện ra, quyết định sẽ mạng chung.  (Luận Câu Xá. Theo Kinh Nhân Quả thì Năm Tướng Đại Suy điều 1 là hai mắt máy động; điều 4 là ánh sáng nơi thân tắt mất). 
NGHIỆP DUYÊN THỌ SANH 
Đức Phật bảo:
"Nầy A Nan!  Tất cả loài hữu tình chết nơi đây, sanh nơi kia, sống chết nối nhau không dứt.  Mỗi khi lâm chung, các Nghiệp lành dữ trong một đời đều hiện.  Chúng sanh nào thuần tưởng thì bay lên hóa sanh nơi cõi Trời.  Nếu trong sự thuần tưởng gồm có Phước Huệ và Tịnh Nguyện, thì tự nhiên tâm khai được thấy Mười Phương Chư Phật, tùy nguyện sanh về cõi Tịnh Độ.  Chúng sanh nào tình ít tưởng nhiều thì vào hàng Phi Tiên, bay đi rất nhẹ nhàng, nhưng không được xa bằng hạng thuần tưởng.  Chúng sanh nào tình, tưởng bằng nhau, sẽ thác sanh vào cõi người; bởi tưởng là thông sáng, tình là tối mê, nên không lên không xuống.  Chúng sanh nào tình nhiều tưởng ít, sẽ lạc vào đường Bàng Sanh, nhẹ thì làm loài phi cầm, nặng thì làm loài tẩu thú.  Chúng sanh nào bảy phần tình ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm thân Ngạ Quỷ, thường chịu nóng bức đói khát trải qua trăm ngàn kiếp.  Chúng sanh nào chín phần tình, một phần tưởng, sẽ bị đọa vào Nại Lạc Ca nhẹ thì sanh nơi Ngục Hữu Gián, nặng thì sanh nơi Ngục Vô Gián.  Chúng sanh nào thuần tình sẽ bị vào đọa Ngục Đại A Tỳ.  Nếu trong tâm ấy còn kiêm các tội như:  hủy cấm giới của Phật, khinh báng Kinh Đại Thừa, thuyết Pháp sai lầm, tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính và phạm Ngũ Nghịch Thập Ác, thì sẽ bị quả luân chuyển sanh về Ngục Vô Gián ở Mười Phương."  (Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Bởi Ba Cõi định ngôi, Sáu Đường chia loại, nên hình hài xấu đẹp, quả có khổ vui!  Tìm ra điểm sanh khởi chẳng rời sắc tâm; xả đến chổ hội quy không ngoài sanh diệt.  Mà sanh diệt Luân Hồi chính thật Vô Thường, sắc tâm Hư Huyễn nguyên là cội khổ!  Thế nên, Kinh Pháp Hoa dụ cho nhà lửa, Kinh Niết Bàn ví với sông to.  Bậc Thánh Nhơn thuyết giáo để đưa sanh loại vượt ra ba cõi, về nẻo chân tâm là do lẽ trên vậy.  Đến như Thiên Báo, tuy lầu quỳnh áo gấm, người đẹp cảnh xinh, nhưng trên Trời Tha Hóa còn có Thiên Ma, trong cõi Vô Vân vẫn nhiều ngoại đạo.  Huống nữa bậc Phi Tưởng Định còn đạo Phi Ly, Trời Đâu Xuất Đà hãy mê Ngũ Dục; nên biết Phước  áo dễ sanh kiêu mạn, cảnh vui khó học Niết Bàn!  Đến khi Thắng Nghiệp hết rồi, thì tóc tiên hoa héo, áo ngọc bụi vương, điện vàng tắt ánh quang minh, thân nhớp còn chi vẻ đẹp?  Khắp khuyên rửa lòng sám hối, niệm Phật làm lành, xa thì vui quả chân thường, gần được về nơi Tịnh Độ.  (Pháp Giới Tập Thuật Ngữ) 

Niệm Phật một câu, phúc sanh vô lượng - Lễ Phật một lạy, tội diệt hà sa

Không có nhận xét nào: